Trang:Chuyen giai buon 2.pdf/46

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này cần phải được hiệu đính.
— 47 —

107. — ông ngô đồng tri.

Đất Tế-nam có ông đồng tri, tánh ngay thẳng không hay dua mị. Thuở ấy kẻ làm việc quan hay đòi tiền công, tiền son mực gọi là lậu qui nghĩa là phép riêng. Hễ trong tơ lại ăn uống của dân, khuy không của quan, thì quan trên che chở, tang vật ăn chung không ai dám ngạnh trở. Chia cho ông Đồng-tri một phần, ép ông ấy không lảnh, quan trên giận quở mắng, ông ấy cũng mắng trả mà rằng: tuy tôi làm nhỏ, cũng là chức tước triều đình, tôi có tội thì tham xữ không được chưởi mắng, có chết tôi xin chịu, tôi không đem lộc triều đình ra mà thường tang uổng pháp. Quan trên phải làm vui, lấy lời phủ ủy. Người người đều nói đời nầy làm phải không đặng, té ra quấy là tại người ta mà lại đổ cho đời. Nhơn thuở ấy đất Cao-uyển có một người mắc tà túy tới tại công đường ăn nói khẳng khái, nghe tiếng nói mà không thấy người, có kẻ hỏi rằng: quỉ thần có phép linh thiêng, chuyện chi cũng biết, dám hỏi nhà ngươi trong quận nầy, quan viên cả thảy có mấy ông. Người ấy nói có một ông, ai nấy cười. Người ấy lại nói cả quân quan lớn nhỏ có 72 ông mà đáng mặt quan thì chỉ có một mình Ngô-đồng-tri mà thôi chớ.


108. — ăn trôm bình vàng.

Đời minh hiệu Thành-hóa, tế nam giao việc rồi dọn đồ mất hết một cái bình vàng. Thuở ấy có một người đầu bếp hầu gần, ai nấy nghi liền bắt nó mà giao cho quan tra xét. Tấn khảo đau đòn tên đầu bếp túng lắm phải chịu có lấy; song đên khi hỏi bình, thì nó bơ vơ không