Vua Gia Long ra đời
Cứu đời mừng có thánh nhân[5],
Hoàng triều khải vận dẹp quân hung-tàn.
Mở-mang bờ cõi phong-cương[6],
Thay Lê diệt Trịnh sửa-sang mối giường.
Lựa bày lễ nhạc, văn-chương,
Thần truyền thánh kế muôn phương đức nhuần.
Dân vui cõi thọ đài xuân[7],
Sáu mươi năm lẻ, hưu-trưng[8] thái-bình.
Nào dè bĩ vận gần sinh,
Hoàng-kỳ-tặc tới Bắc-kinh quấy rầy[9].
Lại thêm thủy hạn thường ngày[10],
Ơn ra nhờ chúa khéo xoay khỏi nàn.
Hoàng triều khải vận dẹp quân hung-tàn.
Mở-mang bờ cõi phong-cương[6],
Thay Lê diệt Trịnh sửa-sang mối giường.
Lựa bày lễ nhạc, văn-chương,
Thần truyền thánh kế muôn phương đức nhuần.
Dân vui cõi thọ đài xuân[7],
Sáu mươi năm lẻ, hưu-trưng[8] thái-bình.
Nào dè bĩ vận gần sinh,
Hoàng-kỳ-tặc tới Bắc-kinh quấy rầy[9].
Lại thêm thủy hạn thường ngày[10],
Ơn ra nhờ chúa khéo xoay khỏi nàn.
Pháp sang lấy Nam Việt
Lạ thay cái nước Pháp-lan,
Băng ngàn vượt biển lướt sang giòm hành.
Băng ngàn vượt biển lướt sang giòm hành.
- ▲ Mục lân 睦鄰 là nước láng-giềng hòa-thuận, không hay sinh sự.
- ▲ Đãi-hoang 怠荒 là lười-biếng phóng-túng.
- ▲ Ngụy Tây là nói Tây-sơn
- ▲ Thiết cứ 竊據 là cướp trộm mà lấy.
- ▲ Thánh nhân là nói vua Gia-long.
- ▲ Phong-cương là bờ cõi.
- ▲ Cõi thọ đài xuân là do chữ Xuân-đài thọ vực tức là cõi người sống lâu dài và đền mát mẻ.
- ▲ Hưu-trưng 休徴 cũng như cát trưng là điềm tốt.
- ▲ Hoàng-kỳ-tặc là giặc Cờ vàng; Bắc-kinh là nói Bắc-Việt.
- ▲ Mấy năm ở Bắc-Việt bị đê vỡ nước-lụt và hạn hán luôn dân rất cực-khổ.
14