Trang:Kinh Thanh Cuu Uoc Va Tan Uoc 1925.pdf/1209

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
9 : 30
10 : 20
GIĂNG

30 Người trả lời rằng: Người đã mở mắt tôi, mà các ông chẳng biết người bởi đâu đến, ấy là sự lạ lắm! 31 Chúng ta vẫn biết Đức Chúa Trời chẳng nhậm lời kẻ có tội, mà nếu ai kính-sợ Đức Chúa Trời, làm theo ý-muốn Ngài, thì Ngài nhậm lời. 32 Người ta chẳng bao giờ nghe nói có ai mở mắt kẻ mù từ thuở sanh ra. 33 Nếu người nầy chẳng phải đến từ Đức Chúa Trời, thì không làm gì được hết. 34 Chúng trả lời rằng: Cả mình ngươi sanh ra trong tội-lỗi, lại muốn dạy-dỗ chúng ta sao! Đoạn, họ đuổi người ra ngoài.

35 Đức Chúa Jêsus nghe họ đã đuổi người ra, và Ngài có gặp người, bèn phán hỏi rằng: Ngươi có tin đến Con Đức Chúa Trời chăng? 36 Người thưa rằng: Thưa Chúa, người là ai, hầu cho tôi tin đến? 37 Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ngươi đã thấy người, và ấy là chính người đương nói cùng ngươi. 38 Người thưa rằng: Lạy Chúa, tôi tin; bèn sấp mình xuống trước mặt Ngài.

39 Đức Chúa Jêsus bèn phán rằng: Ta đã đến thế-gian đặng làm sự phán-xét nầy: hễ ai chẳng thấy, thì thấy; còn ai thấy, lại hóa mù. 40 Mấy người Pha-ri-si bên cạnh Ngài, nghe đều đó, thì nói với Ngài rằng: Còn chúng ta cũng là kẻ mù chăng? 41 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Nếu các ngươi là kẻ mù, thì không có tội-lỗi chi hết; nhưng vì các ngươi nói rằng: Chúng ta thấy, nên tội-lỗi các ngươi vẫn còn lại.

Người chăn chiên hiền-lành

101 Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, kẻ nào chẳng bởi cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào từ nơi khác, thì người đó là trộm-cướp. 2 Nhưng kẻ bởi cửa mà vào, là người chăn chiên. 3 Người canh cửa mở cho, chiên nghe tiếng người chăn; người chăn kêu tên chiên mình mà dẫn ra ngoài. 4 Khi người đã đem chiên ra hết, thì đi trước, chiên theo sau, vì chiên quen tiếng người. 5 Nhưng chiên chẳng theo người lạ; trái lại, nó chạy trốn, vì chẳng quen tiếng người lạ. 6 Đức Chúa Jêsus phán lời ví-dụ đó, nhưng chúng không hiểu Ngài muốn nói chi.

7 Đức Chúa Jêsus lại phán cùng họ rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, ta là cửa của chiên. 8 Hết thảy những kẻ đã đến trước ta đều là quân trộm-cướp; nhưng chiên không nghe chúng nó. 9 Ta là cái cửa: nếu ai bởi ta mà vào, thì sẽ được cứu-rỗi; họ sẽ vào ra và gặp đồng cỏ. 10 Kẻ trộm chỉ đến để cướp giết và hủy-diệt; còn ta đã đến, hầu cho chiên được sự sống, và được sự sống dư-dật.

11 Ta là người chăn hiền-lành; người chăn hiền-lành vì chiên mình phó sự sống mình. 12 Kẻ chăn thuê chẳng phải là người chăn, và chiên không phải thuộc về nó, nếu thấy muông-sói đến, thì nó bỏ chiên chạy trốn; muông-sói cướp lấy chiên và làm cho tản-lạc. 13 Ấy vì nó là kẻ chăn thuê, chẳng lo-lắng chi đến chiên. 14 Ta là người chăn hiền-lành, ta quen chiên ta, và chiên ta quen ta, 15 cũng như Cha biết ta, và ta biết Cha vậy; ta vì chiên ta phó sự sống mình. 16 Ta còn có chiên khác chẳng thuộc về chuồng nầy; ta cũng phải dẫn nó về nữa, chiên đó sẽ nghe tiếng ta, rồi sẽ chỉ có một bầy, và một người chăn mà thôi. 17 Nầy, tại sao Cha yêu ta: ấy vì ta phó sự sống mình, để được lấy lại. 18 Chẳng có ai cất sự sống ta đi, nhưng tự ta phó cho; ta có quyền phó sự sống, và có quyền lấy lại; ta đã lãnh mạng-lịnh nầy nơi Cha ta.

19 Nhơn những lời đó, người Giu-đa lại chia phe ra nữa. 20 Phần nhiều trong đám họ nói rằng: Người bị quỉ ám, người là điên; sao các ngươi

— 121 —