Bước tới nội dung

Trang:Kinh Thanh Cuu Uoc Va Tan Uoc 1925.pdf/178

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
10 : 1
10 : 24
DÂN-SỐ KÝ

theo mạng Đức Giê-hô-va; họ theo chương-trình của Đức Giê-hô-va, tùy mạng Ngài đã cậy Môi-se mà truyền cho.

Hai ống loa bằng bạc

101 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: 2 Hãy làm hai ống loa bằng bạc, đánh giát, dùng cho ngươi để nhóm-hiệp hội-chúng và truyền cho các trại-quân ra đi. 3 Khi nào người ta thổi loa, toàn hội-chúng sẽ nhóm lại gần bên ngươi, tại cửa hội-mạc. 4 Nếu người ta thổi chỉ một ống loa, thì các quan-trưởng, tức là các quan-tướng đội-quân Y-sơ-ra-ên phải nhóm lại gần bên ngươi; 5 khi các ngươi thổi tiếng vang, thì những trại-quân ở về hướng đông phải ra đi. 6 Khi các ngươi thổi tiếng vang lần thứ nhì, thì những trại-quân ở về hướng nam phải ra đi; người ta sẽ thổi tiếng vang khi nào các trại-quân phải ra đi vậy. 7 Khi nhóm hội-chúng, các ngươi phải thổi, nhưng đừng thổi tiếng vang. 8 Các con trai A-rôn, là những thầy tế-lễ, sẽ thổi những ống loa. Từ đời nầy sang đời kia, ấy sẽ là một lệ-định đời đời cho các ngươi.

9 Khi nào trong xứ các ngươi phải ra chiến-trận cùng kẻ thù-nghịch xông đánh mình, thì phải thổi loa tiếng vang; Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các ngươi sẽ nhớ lại các ngươi, và các ngươi sẽ được giải-thoát khỏi kẻ thù-nghịch. 10 Trong những ngày vui-mừng, trong các lễ trọng-thể và đầu tháng của các ngươi, thì phải thổi loa khi dâng những của-lễ thiêu và của-lễ thù-ân mình; loa sẽ dùng làm kỷ-niệm trước mặt Đức Chúa Trời của các ngươi. Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các ngươi.

Thì kiều-ngụ nơi đồng vắng
(Từ đoạn 10 : 11 đến đoạn 21)

Dân Y-sơ-ra-ên đi đến đồng vắng

11 Xảy trong ngày hai mươi tháng hai, năm thứ hai, thì trụ mây cất lên khỏi đền-tạm chứng-cớ. 12 Dân Y-sơ-ra-ên, theo chương-trình đã định, ra từ đồng vắng Si-na-i, và trụ mây dừng lại tại đồng vắng Pha-ran. 13 Vậy, dân Y-sơ-ra-ên vâng mạng của Đức Giê-hô-va cậy Môi-se truyền cho, mà ra đi lần thứ nhứt.

14 Ngọn cờ của trại-quân Giu-đa, tùy theo các đội-ngũ mình, đi trước. Na-ha-sôn, con trai A-mi-na-đáp, thống-lãnh quân-đội Giu-đa. 15 Na-tha-na-ên, con trai Xu-a, thống-lãnh quân-đội của chi-phái Y-sa-ca. 16 Ê-li-áp, con trai Hê-lôn, thống-lãnh quân-đội của chi-phái Sa-bu-lôn.

17 Bấy giờ, đền-tạm đã tháo dỡ, rồi con-cháu Ghẹt-sôn và con-cháu Mê-ra-ri khiêng đền-tạm, bèn ra đi.

18 Kế đó, ngọn cờ của trại-quân Ru-bên ra đi, tùy theo các đội-ngũ mình. Ê-lít-su, con trai Sê-đêu, thống-lãnh quân-đội Ru-bên. 19 Sê-lu-mi-ên, con trai Xu-ri-ha-đai, thống-lãnh quân-đội của chi-phái Si-mê-ôn. 20 Ê-li-sáp, con trai Đê-u-ên, thống-lãnh quân-đội của chi-phái Gát.

21 Bấy giờ, các người Kê-hát khiêng những vật thánh ra đi; người ta dựng đền-tạm lên đương lúc đợi họ đến.

22 Đoạn, ngọn cờ của trại-quân con-cháu Ép-ra-im ra đi, tùy theo đội-ngũ mình. Ê-li-sa-ma, con trai A-mi-hút, thống-lãnh quân-đội Ép-ra-im. 23 Ga-ma-li-ên, con trai Phê-đát-su, thống-lãnh quân-đội của chi-phái Ma-na-se. 24 A-bi-đan, con trai Ghi-đeo-ni, thống-lãnh quân-đội của chi-phái Bên-gia-min.

— 166 —