cái đường đời nó gay go là thế. Tuy vậy chớ chàng ta cũng chẳng hề nao núng tấc lòng, vì tự biết cho mình hẵn thật là vàng mười; càng nung nấu chừng nào thì càng tốt càng tươi, không sờn không rúng.
Dầu cho sấm sét búa riều,
Cũng đam vàng đá mà liều với thân.
Song ngồi mà nghĩ lại từ ngày ta lên đất Tây-ninh đến nay, chẳng có một người biết được lòng ta; duy có một mình bà Phủ Ân biết ta mà yêu vì kính trọng đó thôi, thế thì bà Phủ nầy tức là tri-kỷ của ta đó. Đến như cái việc hàm oan của ta đây, mặc tình thế tục nghị luận lăng xăng, dầu họ có đề quyết cho ta đi nữa, ta cũng chẳng sờn, ta chỉ phú cho cao-xanh soi xét. Ta lo là lo có một mình bà Phủ mà thôi, vì sợ e bà cũng lấy theo phụ nữ thường tình mà ức độ cho ta rằng quả có làm đều cang danh phạm nghĩa ấy, thì rất uổng cho cái lòng tốt của bà yêu vì kính trọng ta tự bấy lâu nay. Vậy thì ta phải tạm kính ít hàng gởi ra mà tố trần cái đều oan khuất của ta cho bà rõ, đặng cho bà minh được cái tâm-tích của ta, dầu có thác cũng đành nhắm mắt. » Nghĩ rồi bèn hỏi lính gát khám, mượn một cây viết chì và xin một chút giấy viết lảo thảo vài hàng như vầy:
Một ngày tri ngộ, muôn kiếp ghi xương;
Tai họa phi thường, cao-xanh soi xét;
Tình đời thương ghét, cháu để ngoài tai;
Cháu một xin bà, biết cho là đủ.
Viết rồi xếp lại, cậy người lính gát, chờ lúc mãn phiên, xin đem ra giùm trao cho bà Phủ.
Khi bà Phủ được thơ, liền lấy ra một đồng bạc mà cho tên lính đem thơ. Tên lính tạ ơn đi rồi, bà mới kêu hai cô con ra, dạy ngồi bên cạnh, rồi mới mở bức thơ ra mà xem chung với nhau. Bà và xem thơ và suy nghĩ hồi lâu rồi mới nói với hai cô con rằng: « Thầy giáo thẩy nói như vầy thì má cũng bán tín bán nghi quá đi con; vậy sẵn thầy thông đứng bàn của quan Bồi-thẩm nầy với má cũng có quen. Thôi, để tối nay má đi lại nhà thẩy mà hỏi thăm thử coi, lời khai báo thể nào và việc dữ lành cho biết. » Hai cô con cũng lấy làm phải.