Trang:Nam Ky phong tuc nhon vat dien ca 2.pdf/14

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 60 —

Sanh con nam nữ trưởng thành, Hậu đức hiền lành một cập anh em.
Nguyển-trung-Hậu ngoài tên Nghiêm, Nối làm Cai-tỗng khiêm khiêm chỉnh tề.
Nguyển-hữu-Đức ngoài tên Huê, Đương kiêm Phó-tổng phu thê thuận hòa.
Cốc noi chữ nghĩa truyền nhà, Phụ từ tữ hiếu huynh hòa đệ cung.
Tốt thay nhà ở theo giồng, Hết giồng tới ruộng ruộng giồng cao lương.
Ba-tri phong thủy một phương, Phan-công Thanh-Dản cố hương lưu tồn.
Quê ngài ở Bảo-thạnh thôn, Đại khoa Tấn-sĩ tiếng đồn Nam-trung.
Phải trang sư phạm nho tông, Kinh lân sữ mã siêng dùng sữa trau.
Mày xanh đến lúc bạc đầu, Thờ ba trào chúa một câu trung thành.
Biển-cần thuở dợn sóng kình, Tiếc-mao Khâm mạng trấn thành Vỉnh-long.
Kiến cơ biết sẳng nơi lòng, Chủ trương đã định ở trong lẻ trời.
Xiếc bao sầu thảm cuộc đời, Y khôn mở miệng hở lời với ai.
Thị phi phú mặc tiếng ngoài, Ngài cam một giấc dạ đài thì thôi.
Nhịn cơm chịu chết cho rồi, Thung dung tựu nghĩa làm tôi phận toàn.
Phủ-thờ nay ở tại làng, Mộ phần bia chí rỏ ràng tạc ghi.
Đẹp thay Phong-thổ Ba-tri, Tên kêu Chợ-đập nguyên vì cớ đây.
Thuỡ ấy làng An-hòa-tây, Có ông Xã-Hạt dựng gầy thị trung.
Thường thường qui tụ cũng đông, Chợ-ngoài tên đặt kêu dùng đã lâu.
Khéo cho Tạo-hóa cơ cầu, Khiến ra thay đổi biễn dâu cuộc đời.
An-bình-đông xả một nơi, Có cây da lớn nghỉ ngơi bộ hành.
Bán buôn hàng vặc rập rình, Kẻ ngồi người đứng thích tình không đi.
Ông cả Kiểm, thấy chuyện kì, Tới nơi cây ấy lập vi thị truyền.
Chổ nhằm cuộc đất linh thiên, Như ai xuôi giục người riêng tấm lòng.
Càng ngày càng thạnh càng sung, Chợ ngoài thưa nhóm túng cùng nổi sân.
Bốn cây đắp đặp cảng ngăn, Không cho ghe cộ vào băng An-bình.
Gây ra cừu oán đấu tranh, Kiện nhau tới tĩnh sự tình lôi thôi.
Thế thần Ông-Hạt có rồi, Kiễm, bèn toan liệu với đôi ông Làng.
Kinh-đô ta kiếp băng ngàn, Ngự tiền trạng bạch ngai vàng xử phân.
Châu phê đập chẳng khá ngăn, Cho ghe buôn bán dễ dân ra vào.
Phước phần trời đã định trao, Ông Thái-văn-Kiễm phú hào vỉnh vi.
Tục ngữ rằng già Ba-tri, Ấy là minh chĩ vậy thì Thái-ông.
Kiện cho thấy mặt cữu-trùng, Trong trào ngoài quận người đồng ngợi danh.
Ông-Kiễm tánh hay nhơn lành, Vợ thêm hiền đức cưởi canh mẩn cần.
Bày nghề dệt lụa dần dần, Đờn bà con gái tập lần khéo khôn.
Lụa Ba-tri, có tiếng đồn, Bởi Bà-cã dạy lưu tồn đến nay.
Ông bà hòa thuận sum vầy, Ninh hinh roi dấu đặng rày ba trai.
Viết, làm Bát-phẩm-văn-dai, Thạnh, làm Cữu-phẩm là hai đã đành.
Hào, làm Đội-nhứt tĩnh thành, Ông-Hào, Ông-Thạnh, âm minh vội về.
Viết, thi sĩ hạnh chĩnh tề, Nghỉa phương giáo huấn đề huề nhi tôn.
Nuôi cháu dạy đã lớn khôn, Có hai người đặng danh tồn đương kiêm.
Thái-Ngưng nho nhã khiêm khiêm, Tục kêu Bồi-Mển tánh liêm đức hiền.
Sữa nên phong hóa xóm riềng, Tế thần nhằm lễ tự tiên phải nghì.