cột cho nhà nước. Rồi đến đem quân ra trận, đốc phu đắp đê, cũng dùng đến những ông này.
Cái phải học thì không dùng được, cái cần-dùng thì chẳng học đến bao giờ, lối dụng-nhân như vậy phỏng còn làm được trò gì
Sự học đã sai đường thì vô-số những bực thông-minh. tài-tuấn đều thành ra người « bỏ đi ».
Nói đến chính-sách ngoại-giao lại càng tức cười nữa Từ đời Gia-long thỉnh-thoảng vẫn có người mình sang tận bên Pháp, mở mắt mà trông sự tiến-bộ của họ rồi, song mà mình vẫn không hề coi họ vào đâu. Hình như suốt cả trong nước đều chỉ tưởng rằng: Dưới gầm trời này, trừ nước Tầu ra, duy có nước Nam là hay hơn hết, vì mình cũng như Tầu, mấy nghìn năm đọc sách thánh-hiền, đã trở nên một nước « Y-quan văn-vật », còn ngoại giả đều mọi-rợ ráo.
Đứng trong đời muôn nước thông-đồng trên lục địa hầu như cửa chợ, cả nước mình chỉ biết có một nước Tầu mà thôi, vua-quan của mình cũng chỉ giao-thiệp với một nước Tầu mà thôi, ngoài nước Tầu ra, ai xin thông-thương mặc kệ, ai xin truyền giáo mặc kệ, cưa biển cứ giữ cho chặt, cửa ải cứ khép cho chặt, không thèm chơi với nước nào. Thậm-chí có kẻ xin cho người đi du-học Triều-đình cũng bác đi luôn. « Tứ-thư, Ngũ-kinh, hai mươi bốn cuốn Bắc-sử, đủ làm cho nước giầu dân mạnh rồi mà. Cần gì phải học đâu nữa)), Ấy là tư-tưởng chung của những kẻ cầm quyền đời ấy. Cái tư-tưởng ấy đã