Trang:Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn.djvu/67

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này cần phải được hiệu đính.
— 65 —
  1. Quen mặt đắt hàng.
    Đã có tin nhau thì dễ việc buôn bán.
  2. Quen nhà mạ, lạ nhà chồng.
    Ở đâu quen đó ; làm đâu phải thủ lễ.
  3. Quỉ khốc thần sầu.
    Quỉ khóc, thần rầu. Ấy là tiếng khen văn chương hay tuyệt phẩm. Có câu rằng : Quỉ giận thần hờn, thì là chê việc gian ác thái quá.
  4. Quí tinh bất quí đa.
    Chính nghĩa nói về binh lính, dùng ròng không dùng đông. Người ta hay lấy nghĩa rộng là quí cho tốt chẳng luận nhiều.
  5. Quí vật tìm quí nhơn.
    Vật quí tìm người quí, của đời là của xây vần, bao nhiêu quí vật thì tầm quí nhơn. Quí nhơn thường hiểu là người giàu sang.
  6. Quốc dĩ dân vi bổn.
    Nước lấy dân làm gốc, có dân mới có nước. hễ bản cố ban ninh. nghĩa là gốc bền nước mới yên. Còn một vế nữa là dân dĩ thực vi thiên.

R

  1. Rậm người hơn rậm cỏ.
    Thà cho người ở cho ấm cúng, chẳng thà bỏ đất hoang.
  2. Rắn đi còn dằm để lại.
    Không mất dấu.
  3. Rắn già rắn lột, ta già ta cột đầu săng.
    Không ai lột da ở đời.
  4. Rắn rít bò vào, cóc nhái bò ra.
    Không thể ở chung lộn.
  5. Ráng vàng trời nắng, ráng trắng trời mưa.
    Ấy là một phép xem trời mưa nắng.
  6. Rán sành ra mỡ.
    Không có, muốn làm cho có, cằn sảy thái quá.
  7. Rau nào sâu ấy.
    Bổn tánh giống nhau.
  8. Ruộng ai thì nấy đắp bờ.
    Công việc ai nấy làm.
  9. Rừng có mạch, vách có tai.
    Nói ra ắt có người nghe, không nên trống trải lời nói. Nguyên có câu chữ rằng : Vật vị Tần vô nhơn ; thuộc viên hữu nhỉ. Câu trước nghĩa là chớ nói nước Tần không người ; câu sau nghĩa là liền vách có tai.