Trang:Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn.djvu/95

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này cần phải được hiệu đính.
— 93 —

THƠ TRĂNG NON.

Khen ai cắc cớ bấm trời tây ;
Tỉnh thức Hằng nga khéo vẽ mày.
Một phiến lênh đênh trôi mặt nước ;
Nữa vành lững đững dán chơn mây.
Cá ngờ câu thả tơi bời lội ;
Chim ngỡ cung trương sập sận bay.
Miệng thế chở chê rằng chếch mác,
Một mai tròn trịa bốn phương hay.

THƠ CÂY VÔNG.

Uổng sinh trong thế mấy thu đông ;
Đồ sộ làm chi vông hỡi vông.
Rường xoi cột trỗ chưa nên mặt ;
Giạu mỏng rào thưa phải dựng lòng.
Da thịt chẳng già, già mắt mỉu ;
Ruột gan chẳng có, có gai chông.
Cho biết cây nào bông trái ấy ;
Xuân qua bớn tớn cũng đơm bông.

THƠ CON MUỖI.

Muỗi hỡi mầy sanh giáp tí nào ;
Đã tầng trải khắp chốn thanh thao.
Ngày xanh đủng đỉnh chơi thềm ngọc ;
Đêm vắng xung xăng ấp má đào.
Ghẹo kẻ Hằng-nga cơn giấc điệp ;
Trêu người thần nữ thuở chiêm bao.
Béo miệng chẳng thương con trẻ dại ;
Ngang hông nào tưởng chúng dân nghèo.

THƠ LÃO KỊ ĐI TU.

Chày kình dộng tỉnh giấc Vu san,
Mái tóc qui y nửa trắng vàng.
Đài kính thử soi màu phấn lợt ;
Cữa không trộm gởi chút xuân tàn.
Tỉnh hồn hoa liễu vài câu kệ ;
Nương bóng tang du một chữ nhàn.
Ngảnh mặt lầu xanh xem những trẻ,
Trầm luân chưa khỏi kiếp hồng nhan.