lương giúp-đỡ, bấy giờ nước Nam đang cường, vua tôi đồng lòng, bụng dân phấn chấn; mà bên Tàu đang lúc suy-nhược, cho nên ta đắp thành Bình-lỗ (thuộc Thái-nguyên) phá được quân nhà Tống, đó là một thời. Đến đời nhà Lý, quân Tống sang xâm, Lý-đế sai Lý thường Kiệt đánh mặt Khâm, Liêm, dồn đến Mai-lĩnh, quân hùng, tướng dũng, đó là có thế đánh được. Kế đến bản-triều, giặc Nguyên kéo đến vây-bọc bốn mặt, may được vua tôi đồng lòng, anh em hòa-mục, cả nước đấu sức lại mà đánh, mới bắt được tướng kia, cũng là lòng trời giúp ta mới được thế.
« Đại để, kẻ kia cậy có tràng trận, mà ta thì cậy có đoản binh; lấy đoản chống nhau với tràng, phép dùng binh thường vẫn phải thế. Còn như khi nào quân giặc kéo đến ầm ầm, như gió, như lửa, thế ấy lại dễ chống. Nếu nó dùng cách dần dà, như tằm ăn lá, thong-thả mà không ham của dân, không cần lấy mau việc, thế ấy mới khó trị; thì ta nên kén dùng tướng giỏi, liệu xem quyền biến, ví như đánh cờ, phải tùy cơ mà ứng biến, dùng binh phải đồng lòng như cha con một nhà, thì mới có thể đánh được. Cách ấy cốt phải tự lúc bình thì khoan sức cho dân, để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là cái thuật giữ nước hay hơn cả ».
Anh Tông chịu lời ấy rất là phải.
Được mấy hôm thì ngài mất, vua cùng các quan ai nấy đều cảm-thương lắm.
Hưng-đạo-vương thực là hết lòng với vua, với nước, tuy rằng uy-quyền lừng-lẫy, mà vẫn giữ chức-phận làm tôi, không dám điều gì kiêu-ngạo. Đang khi quân Nguyên quấy nhiễu, ngài cầm binh-quyền, Thánh-tông, Nhân-tông cho ngài được chuyên quyền phong tước: trừ ra tự tước hầu trở xuống, cho ngài được phong trước rồi mới tâu sau. Thế mà ngài không dám tự tiện phong thưởng cho ai cả; phàm những nhà giàu mà ngài có quyên tiền gạo để cấp cho quân ăn, ngài chỉ phong cho làm giả-lang-tướng mà thôi, nghĩa là tướng cho vay lương. Ngài cẩn-thận như thế và ở với ai cũng thật là công-chính cho nên đến khi ngài mất, tự vua