mỗi đoàn có 10 đội. Còn những cấm vệ, thì chỉ có 5 đội, có một người đại-tướng thống-lĩnh cả.
2. VIỆC SƯU-THUẾ. Những thuyền đi buôn-bán đều phải chịu thuế cả. Những thuyền hạng nhất mỗi chiếc phải 5 quan, hạng nhì 4 quan, hạng ba 3 quan.
Thuế điền thì ngày trước nhà Trần đánh thuế ruộng tư mỗi mẫu ba thăng thóc, ruộng dâu mỗi mẫu hoặc 9 quan, hoặc 7 quan. Thuế đinh thì mỗi người phải đóng 3 quan. Nay nhà Hồ định lại: ruộng tư điền thì phải đóng 5 thăng; còn ruộng dâu thì chia ra làm 3 hạng: hạng nhất 5 quan, hạng nhì 4 quan, hạng ba 3 quan. Thuế đinh thì lấy ruộng làm ngạch: ai có 2 mẫu 6 sào trở lên thì phải đóng 3 quan, ai có kém số ấy được giảm bớt, ai không có ruộng, và những người cô-nhi quả-phụ thì được tha thuế.
3. VIỆC HỌC-HÀNH. Việc học-hành, thi-cử đều sửa-sang lại, lấy toán-học đặt thêm ra một trường nữa, nghĩa là trong những khoa thi, có đặt thêm ra một kỳ thi toán-háp. Còn những cách thi, thì những người đã đỗ hương thi, sang năm sau phải vào bộ Lễ thi lại, ai đỗ thì mới được tuyển bổ, rồi qua năm sau nữa thì lại thi hội, bấy giờ có đỗ, thì mới được là Thái-học-sinh.
Nhà Hồ lại sửa hình-luật, và đặt ra y-tỳ để coi việc thuốc-thang.
4. VIỆC GIAO-THIỆP VỚI CHIÊM-THÀNH. Năm nhâm-ngọ (1402) tướng nhà Hồ là Đỗ Mãn đem quân sang đánh Chiêm-thành. Vua nước ấy là Ba đích Lại sai cậu là Bồ Điền sang dâng đất Chiêm-động (phủ Thăng-bình, tỉnh Quảng-nam) để xin bãi binh. Quí Ly lại bắt phải dân đất Cổ-lụy (Quảng-nghĩa) rồi phân đất ra làm châu Thăng 升, châu Hoa 花, châu Tư 思, châu Nghĩa 義, và đặt quan An-phủ-sứ để cai-trị bốn châu ấy. Lại bắt những dân có của mà không có ruộng ở các bộ khác đem vợ con vào ở để khai-khẩn đất những châu ấy, bởi vì khi vua Chiêm nhường đất Chiêm-động và Cổ-lụy, người Chiêm đều bỏ đất mà đi cả.