Trang:Viet Nam Su Luoc 2.pdf/300

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Bước tới điều hướng Bước tới tìm kiếm
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.

Kinh, chứ không mấy khi sứ ta sang đến Yên-kinh. Trong đời vua Dực-tông thì sử chép rằng năm mậu-thìn (1868), có ông Lê Tuấn 黎 俊, ông Nguyễn tư Giản 阮 思 僴 và ông Hoàng Tịnh 黄 並 sang sứ Tàu. Năm quí-dậu (1873), lại có các ông Phan sĩ Thục 潘 仕 俶, ông Hà văn Khai 何 文 開, và ông Nguyễn Tu 阮 修 sang sứ Tàu, để bày-tỏ việc đánh giặc Khách ở Bắc-kỳ.

Từ năm giáp-tuất (1874) trở đi, Triều-đình ở Huế đã ký tờ hòa-ước với nước Pháp, công-nhận nước Nam độc-lập, không thần-phục nước nào nữa, nhưng lúc bấy giờ vì thế bất-đắc-dĩ mà ký tờ hòa-ước, cứ trong bụng vua Dực-tông vẫn không phục, cho nên ngài cứ theo lệ cũ mà triều-cống nước Tàu, có ý mong khi hữu sự, nước Tàu sang giúp mình. Bởi vậy năm bính-tí (1876), vua Dực-tông sai ông Bùi ân Niên 裴 殷 年 tức là ông Bùi Dỵ 裴 異, ông Lâm Hoành 林 宏 và ông Lê Cát 黎 吉 sang sứ nhà Thanh. Năm canh-thìn (1880), lại sai các ông Nguyễn Thuật 阮 述, Trần khánh Tiến 陳 慶 洊, Nguyễn Hoan 阮 歡 sang Yên-kinh dâng biểu xưng thần và các đồ cống-phẩm. Năm sau, Triều-đình nhà Thanh sai Đường đình Canh 唐 廷 庚 sang Huế bàn việc buôn-bán và lập cuộc chiêu thương 招 商 局, chủ-ý là để thông-tin cho chính-phủ Tàu biết mọi việc bên nước ta.

Một bên đã hòa với nước Pháp, nhận theo chính-lược ngoại-giao của nước Pháp mà độc-lập[1], một bên cứ triều-cống nước Tàu, có ý để cầu-viện, bởi thế cho nên chính-phủ Pháp lấy điều đó mà trách Triều-đình ta vậy.

4. TÌNH-THẾ NƯỚC TÀU. Xưa nay ta vẫn công-nhận nước Tàu là thượng-quốc và vẫn phải lệ triều-cống. Hễ khi nào trong nước có việc biến-loạn và vẫn trông-mong nước Tàu sang cứu-viện. Không ngờ từ thế-kỷ thứ XIX trở đi, thế-lực các nước bên Âu-tây mạnh lên, người phương Tây đi lược-địa rất nhiều, mà tình-thế nước Tàu thì rất là suy-nhược. Năm Đạo-quang thứ 19 (1839) tức là năm Minh-mệnh thứ 20 bên ta, vì việc cấm thuốc nha-phiến ở Quảng-

  1. Tờ hòa-ước năm giáp-tuất 1874.