Bước tới nội dung

Truyền kỳ mạn lục/3

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

CHUYỆN CÂY GẠO

Trình Trung Ngộ là một chàng đẹp trai đất Bắc-hà. Nhà rất giàu, thuê thuyền xuống vùng Nam buôn-bán. Chàng thường đỗ thuyền ở dưới cầu Liễu-khê[1] rồi đi lại vào chợ Nam-xang. Dọc đường, hay gặp một người con gái xinh-đẹp, từ Đông-thôn đi ra, đằng sau có một ả thị-nữ theo hầu. Chàng liếc mắt trông, thấy là một giai-nhân tuyệt-sắc. Song đất lạ quê người, biết đâu dò hỏi, chỉ mang một mối tình u-uất trong lòng. Một hôm khác, chàng cũng lại gặp, muốn kiếm một lời nói kín-đáo để thử khêu-gợi, nhưng người con gái đã xốc xiêm rảo bước, và bảo với con hầu gái rằng:

— Ta lâu nay rượu xuân quá chén, mê-mệt nằm dài, hầu nửa năm trời, không lên chơi cầu Liễu-khê lần nào cả, chẳng biết giờ phong-cảnh ra sao. Đêm nay nên qua thăm cảnh cũ, để được khuây-giải chút tình u-uất ở trong lòng, vậy em có đi theo ta không?

Con hầu vâng lời.

Trung Ngộ nghe lõm được lấy làm mừng lắm. Tối hôm ấy, chàng đến bên cầu chờ sẵn. Đêm khuya người vắng, quả thấy người con gái cùng ả thị-nữ mang theo đến một cây hồ-cầm, đi tới đầu cầu, thở dài mà nói rằng:

— Nước non vẫn nước non nhà, cảnh còn như cũ người đà khác xưa, làm sao khỏi cảm-động bùi-ngùi cho được!

Bèn ngồi tựa vào bức lan-can trên cầu, ôm đàn gảy mấy bài Nam-cung, mấy điệu Thu-tứ. Một lúc nàng bỏ đàn đứng dậy nói rằng:

— Giải niềm u-uất, muốn mượn tiếng đàn; song điệu cao ý xa, đời làm gì có kẻ tri-âm hiểu cho mình được, chẳng bằng về cho sớm là hơn.

Trung Ngộ liền bước rảo đến trước mặt nàng, vái chào mà rằng:

— Chính tôi là người tri-âm mà nương-tử đã không biết đấy.

Người con gái giật mình nói:

— Vậy ra chàng cũng ở đây ư? Thiếp đã từng nhiều lần được chàng đoái tới, ơn ấy thật vẫn ghi lòng. Chỉ vì ở đường-sá vội-vàng, không tiện tỏ-bày chung-khúc. Giờ nhân đêm vắng, dạo bước nhàn du, không ngờ chàng lại đã đến trước ở đây. Nếu không phải duyên trời, sao lại có sự gặp-gỡ may-mắn như vậy. Song hạt châu hạt ngọc ở bên, thiếp chẳng khỏi tự xét thấy mình nhơ-bẩn, thực lấy làm e-thẹn vô cùng.

Chàng hỏi họ tên và nhà cửa. Nàng chau mày nói:

— Thiếp họ Nhị tên Khanh, là cháu gái của ông cụ Hối, một nhà danh-giá trong làng. Hai thân mất sớm, cảnh nhà đơn-hàn. Mới đây bị người chồng ruồng bỏ, thiếp phải dời ra ở bên ngoài lũy làng. Nghĩ đời người ta, thật chẳng khác gì giấc chiêm-bao. Chi bằng trời để sống ngày nào, nên tìm lấy những thú vui. Kẻo một sớm chết đi, sẽ thành người của suối vàng, dù có muốn tìm cuộc hoan-lạc ái-ân, cũng không thể được nữa.

Hai người bèn đưa nhau xuống thuyền. Người con gái sẽ bảo chàng rằng:

— Thân tàn một mảnh, cách với chết cũng chẳng bao xa. Ngày tháng quạnh-hiu, không người săn-sóc. Nay dám mong quân-tử quạt hơi dương vào hang tối, thả khí nóng tới mầm khô, khiến cho tía rụng hồng rơi, được trộm bén xuân quang đôi chút, đời sống của thiếp như thế sẽ không phải phàn-nàn gì nữa.

Bèn cùng nhau ân-ái hết sức thỏa-mãn. Nàng có làm hai bài thơ để ghi cuộc hoan-lạc như sau:


               I
窮 閻 久 困 午 眠 遲
Cùng diêm cửu khốn ngọ miên trì
羞 對 新 郎 語 別 離
Tu đối Tân-lang ngữ biệt-ly
玉 笋 整 斜 珠 釧 子
Ngọc duẩn chỉnh tà châu xuyến tử
香 羅 脫 換 綉 鞋 兒
Hương la thoát hoán tú hài-nhi.
夢 殘 半 枕 迷 蝴 蝶
Mộng tàn bán trẩm mê hồ-điệp,
春 盡 三 更 怨 子 規
Xuân tận tam canh oán tử quy.
此 去 未 酬 同 穴 約
Thử khứ vị thù đồng huyệt ước,
好 將 一 死 爲 心 知
Hảo tương nhất tử vị tâm tri.

Dịch:

Giấc xuân mê-mệt chốn hoang-liêu,
Bỗng sượng-sùng thay cuộc ấp-yêu.
Măng ngọc[2] vuốt-ve nghiêng xuyến trạm,
Dải là cổi tháo trút hài thêu.
Mộng tàn gối bướm bâng-khuâng lạc,
Xuân hết cành quyên khắc-khoải kêu.

Đồng-huyệt chưa tròn nguyền-ước ấy,
Vì nhau một thác sẵn xin liều.


               II
佳 期 忍 負 此 良 宵
Giai kỳ nhẫn phụ thử lương tiêu
醉 抱 銀 箏 撥 復 挑
Túy bão ngân tranh bát phục khiêu.
玉 燕 任 慵 簪 墜 髻
Ngọc yến nhiệm dung trâm trụy kế,
金 蟬 幾 怕 束 纖 腰
Kim thuyền ky phạ thúc tiêm yêu,
煙 舒 棠 萼 紅 猶 濕
Yên thư đường ngạc hồng do thấp.
汗 褪 梅 粧 白 未 消
Hãn thối mai trang bạch vị tiêu.
早 晚 結 成 鸞 鳳 友
Tảo vãn kết thành loan-phượng hữu,
風 晨 月 夕 任 招 邀
Phong-thần nguyệt-tịch nhiệm chiêu yêu.

Dịch:

Đêm đẹp này đâu nỡ bỏ hoài,
Ôm tranh nhẹ bấm một đôi bài.
Đầu cài én ngọc[3] hình nghiêng chếch,
Lưng thắt ve vàng[4] dáng ỏe oai.
Đường[5] lúc nở rồi hồng đượm ướt,
Mai khi rã hết trắng chưa phai,
Phượng loan sớm kết nên đôi lứa,
Gió sớm giăng khuya thỏa cợt-cười.

Trình Trung Ngộ vốn là lái buôn, biết ít chữ-nghĩa, nàng giải-nghĩa rõ-ràng cho hiểu; chàng rất khen-ngợi mà rằng:

— Văn-tài của nàng, không kém gì Dị-An[6] ngày xưa.

Nàng cười mà rằng:

— Người ta sinh ở đời, cốt được thỏa-chí, chứ văn-chương thời có làm gì, chẳng qua rồi cũng nấm đất vàng là hết chuyện. Đời trước những người hay chữ như Ban Cơ, Sái-nữ[7], nay còn gì nữa đâu. Sao bằng ngay trước mắt, tìm thú vui say, để khỏi phụ mất một thời xuân tươi-tốt.

Trời gần sáng, nàng từ-biệt ra về, từ đấy đêm nào cũng lại.

Trải hơn một tháng, bọn bạn buôn có người biết chuyện, bảo với Trung Ngộ rằng:

— Bác ở chỗ quê người đất khách, nên biết giữ mình thận-trọng, xa lánh những sự hiềm-nghi. Chớ sao nên giở nết gió trăng, quyến phường hoa liễu. Như người con gái ấy, chẳng tường duyên-do gốc-tích, nếu không là cô ả nũng-nịu ở chốn buồng thêu, thì tất cũng dì bé yêu chiều ở nơi gác gấm. Nay bác cứ như vậy, lỡ một sớm sự cơ khó giấu, thanh-tích lộ ra, trên thì bị hình-pháp lôi-thôi, dưới không có họ-hàng cứu-giúp, bấy giờ thì bác tính thế nào? Chi bằng đã trót dan-díu thì nên tìm đến gốc-tích cửa nhà, rồi hoặc ruồng bỏ, như Xương Lê với nàng Liễu Chi[8], hoặc đèo-bòng, như Lý Tĩnh với nàng Hồng Phất[9], thế mới là kế vạn toàn được.

Trung Ngộ khen phải, rồi một hôm chàng bảo với nàng:

— Tôi vốn là một người viễn-khách, tình-cờ kết mối lương-duyên; nhưng đối với giai-nhân, cửa-nhà chưa rõ, tung-tích không tường, trong bụng rất lấy làm áy-náy.

Nàng nói:

— Nhà thiếp vốn không phải xa-xôi là mấy. Nhưng nghĩ chúng mình gặp-gỡ, chẳng qua là một cuộc riêng tây. Chỉn e thuyền-quyên ghen-ghét, tai mắt nghi-ngờ, đánh vịt mà kinh uyên, đốt lan mà héo huệ. Cho nên thà mang sao mà đến, đội nguyệt mà về, khỏi để mối lo cho lang-quân đó thôi.

Song Trung Ngộ cố nài; nàng cười mà rằng:

— Chỉ vì nhà thiếp xấu-xa, nên hổ-thẹn mà muốn giấu-giếm. Nhưng nay chàng đã cố muốn biết, vâng thì thiếp xin đưa về.

Rồi đó canh ba đêm hôm ấy, nhân lúc đêm đen trời tối, hai người cùng đi đến Đông-thôn. Khi đến một chỗ, chung quanh có bức hàng rào bằng giong tre, thỉnh-thoảng chen lẫn vào vài khóm lau khô, trong có túp nhà gianh thấp nhỏ lụp-sụp, dây vôi dây bìm leo đầy lên vách và lên mái, nàng trỏ bảo chàng rằng:

— Đây, nhà của thiếp đây, xin cứ đẩy cửa vào ngồi chơi, để thiếp đi kiếm cái lửa.

Trình cúi đầu qua dưới mái tranh, vào tạm ngồi ở chỗ bờ cửa. Thỉnh-thoảng có cơn gió thổi, chàng thoáng thấy một mùi tanh thối khó chịu. Đương kinh-ngạc không biết mùi gì, bỗng trong nhà đã có bóng đèn sáng. Chàng trông vào, thấy ở gian bên phía tả kê một chiếc giường mây nhỏ, trên giường để một cỗ áo quan sơn son, trên quan phủ một tấm the hồng, dùng ngân-sa đề vào mấy chữ: « Linh-cữu của Nhị Khanh ». Cạnh cữu có người con gái nặn bằng đất, tay ôm cây hồ-cầm đứng hầu.

Trung Ngộ thấy vậy, sởn gai dựng tóc, tất-tả nhảy choàng ra khỏi cái nhà ấy. Song chàng vừa chạy thì người con gái đã cản đường mà bảo:

— Chàng đã từ xa lại đây, quyết không có lý nào còn trở về nữa. Phương-chi trong bài thơ bữa nọ, thiếp chả đã từng lấy cái chết mà hẹn-hò nhau! Xin sớm theo nhau đi, cho được thỏa nguyền đồng huyệt. Nằm vò-võ một mình như vậy, lẽ đâu nay thiếp lại để cho chàng về.

Nói rồi nàng sấn lại nắm vạt áo chàng. Nhưng may vạt áo cũ bở, chàng giật rách mà chạy được thoát; về đến cầu Liễu-Khê, hầu như kẻ mất hồn không nói được nữa.

Sáng hôm sau, nhân đến Đông-thôn hỏi thăm, quả có người cháu gái của ông cụ Hối, lên 20 tuổi, chết đã nửa năm, hiện quàn ở ngoài đồng ngay bên cạnh làng. Từ đấy Trung Ngộ sinh ra ốm nặng. Mà Nhị Khanh cũng thường qua lại, có lúc đứng bên cửa sổ nói thì-thào. Trung Ngộ cũng vẫn thường ứng-đáp với nàng và muốn vùng dậy để đi theo. Người trong thuyền phải lấy dây thừng trói lại thì chàng mắng:

— Chỗ vợ ta ở, có lâu-đài lộng-lẫy, có hương hoa ngạt-ngào, ta phải đi theo chứ không thể lẩn-quẩn trong chốn bụi hồng này được; dự gì đến các ngươi mà dám đem dây trói buộc ta thế này?

Một đêm, người trong thuyền ngủ say, đến sáng thức dậy thì thấy mất Trung Ngộ. Họ vội đến Đông-thôn tìm thấy chàng đã nằm ôm quan-tài mà chết, bèn phải thu-liệm chôn ngay ở đấy. Từ đó về sau, phàm những đêm tối trời, người ta thường thấy hai người dắt tay nhau đi đôi, khi thì hát, khi thì khóc; thường bắt người ta phải khấn-cầu lễ-bái, hễ hơi không được như ý thì làm tai làm vạ. Người làng đấy không thể chịu được mọi nỗi khổ-hại, họ bèn đào mả phá quan-tài chàng, rồi cùng cả hài-cốt của nàng, vứt bỏ xuống sông cho trôi theo dòng nước.

Trên bờ sông ấy có một cái chùa, chùa có cây gạo rất cổ, tương-truyền là đã sống được hơn trăm năm. Linh-hồn của hai người bèn nương-tựa vào cây gạo ấy làm yêu làm quái, hễ ai động đến cành lá cây gạo thì dao gãy rìu mẻ, không thể nào đẵn phạt được.

Trong năm Canh-ngọ (1330) niên-hiệu Khai-hựu nhà Trần, có vị đạo-nhân một đêm vào nằm ngủ trong cái chùa ấy. Giữa lúc sông quạnh trăng mơ, bốn bề im-lặng, đạo-nhân thấy một đôi trai gái thân-thể lõa-lồ mà cùng nhau cười đùa nô-giỡn, một lát, đến gõ thình-thình mà gọi hỏi trong chùa. Đạo-nhân cho là đôi trai-gái lẳng-lơ đêm trăng dắt nhau đi chơi, khinh-bỉ cái phẩm-cách của họ, nên cứ đóng cửa nằm im, không thèm đánh tiếng. Sáng hôm sau, đạo-nhân đem sự trông thấy thuật chuyện với một ông già ở trong thôn và phàn-nàn là sao dân phong đồi-tệ như vậy. Ông già nói:

— Ngài không biết, đó là giống yêu-quỷ, chúng đến ở trên cây gạo đã mấy năm nay; ước sao có thanh kiếm trừ tà, để trừ cho dân chúng tôi đây giống yêu-quỷ ấy.

Đạo-nhân trầm-ngâm một lúc lâu rồi nói:

— Ta vốn lấy việc cứu giúp mọi người làm nhiệm-vụ; nay cái việc mắt ta trông thấy, nếu chẳng đem pháp-thủ ra thì tức là thấy người chết đuối mà không cứu-vớt.

Rồi đạo-nhân vời họp người làng, lập một đàn-tràng cúng-tế, viết ba đạo bùa, một đạo đóng vào cây gạo, một đạo thả chìm xuống sông, còn một đạo đốt ở giữa trời; đoạn quát to lên rằng:

« Những tên dâm-quỷ, càn-dỡ đã lâu, nhờ các thần-linh, trừ loài nhơ-bẩn, phép không chậm-trễ, hỏa tốc phụng-hành. »

Một lúc, mây gió nổi lên đùng-đùng, người đứng cách mấy thước không trông thấy nhau, dưới sông thì sóng tung cuồn-cuộn, vang trời động đất. Sau một hồi, gió lặng mây quang, thấy cây gạo đã bị nhổ bật, cành cây gãy nát và bị tước như tước đay vậy, kế nghe thấy trong không có tiếng roi-vọt và tiếng kêu khóc. Mọi người ngẩng lên trông, có 6, 7 trăm lính đầu trâu, gông trói hai người mà dẫn đi.

Người làng đem rất nhiều tiền-của để tạ ơn vị đạo-nhân, nhưng đạo-nhân phất áo đi vào non sâu, không lấy một tý gì cả.


Lời bình

Than ôi, cái giống ma-quỷ, tuy từ xưa không phải cái nạn đáng lo cho người thiên-hạ, nhưng kẻ thất-phu đa dục thì thường khi mắc phải. Trung Ngộ là một gã lái buôn không có trí-thức, không đủ trách vậy. Vị đạo-nhân kia vì người trừ hại, công-đức lớn-lao; nhà bình-luận công-bằng sau này, phải nên biết đến. Không nên lấy cớ huyễn-thuật mà cho là chuyện nhảm, bảo rằng dị-đoan mà dìm mất cái hay, ngõ hầu mới hợp cái ý-nghỉa người quân-tử trung-hậu đối với người khác.

   




Chú thích

  1. Cầu này ở làng Liễu-kiều, huyện Nam-xang.
  2. Ngón tay.
  3. Cái thoa chạm hình con chim én.
  4. Lưng mỹ-nhân thắt đỗn lại như lưng con ve.
  5. Câu đường-lê, có hai giống hoa đỏ và giống hoa trắng, có quả ăn được.
  6. Dị An tức là nàng Lý Thanh Chiếu, hiệu Dị-An cư-sĩ, con gái của Lý Cách-Phi và vợ của Triệu Minh Thành, người đất Tế-nam, có tài thơ-văn, nhất là lối từ, trở nên đại thi-gia đời Tống, có quyền « Thấu ngọc từ » còn truyền ở đời.
  7. Ban Cơ tên là Chiêu, em gái Ban Siêu đời Hán, có tài học, triều vua Hòa-đế được triệu vào cung dạy học, các hoàng-hậu quý-nhân đều phải thờ làm thầy. Có làm ra 7 thiên Nữ-giới và làm nối sách Hán-thư. Sái-nữ là nàng Sái Diệm, con gái Sái Ung đời Hán, có văn-tài và hiểu âm-luật, làm ra 18 khúc hát Hồ-già.
  8. Hàn Dũ là một nhà văn-hào, làm quan đời Đường được phong là Xương-lê-bá. Hàn có hai người nàng hầu là Giáng Đào và Liễu Chi. Khi Hàn đi vắng, Liễu Chi bỏ trốn, người nhà đuổi theo bắt về được. Sau Hàn về, chỉ yêu-dấu Giáng Đào và ruồng bỏ Liễu Chi.
  9. Lý Tĩnh đời Đường vào thăm một vị đại-thần là Dương Tố, Tố có một ả nàng hầu tay cầm cái phất-trần đỏ (hồng phất) đứng hầu, đưa mắt nhìn Tĩnh. Tĩnh về nhà, chừng độ nửa đêm, có người mình mặt áo tía, đầu đội mũ đến gõ cửa. Tĩnh mở cửa mời vào, người ấy bỏ mũ ra thì là một mỹ-nhân. Hỏi thì nói: « Em là người cầm phất-trần đỏ ở nhà họ Dương đây mà, xin đem thân cát đằng nương bóng tùng-quân ». Hai người bèn đưa nhau lên Thái-nguyên kết làm vợ chồng.