Bước tới nội dung

Truyền kỳ mạn lục/4

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Truyền kỳ mạn lục  (1547?)  của Nguyễn Dữ, do Ngô Văn Triện dịch
Chuyện gã Trà-đồng giáng-sinh

CHUYỆN GÃ TRÀ-ĐỒNG GIÁNG SINH

Dương Đức Công tên là Tạc, người phủ Thường-tín xứ Sơn-nam, về triều vua Huệ-tôn nhà Lý, ông làm quan coi việc hình-án trấn Tuyên-quang, xét rõ mọi điều oan-khuất, khiến các án-vụ đều được rất công-bằng. Vì sự nhân-từ phúc-hậu, người thời bấy giờ đều gọi là Đức công. Năm 50 tuổi, Đức Công vẫn không có con trai, chợt bị ốm nặng rồi chết, hồi lâu lại tỉnh, bảo với mọi người rằng:

— Ta vừa đến một chỗ thành mực vách sắt, toan bước chân vào thì có một viên-chức ngăn lại. Viên ấy dẫn ta đi sang phía hữu, thấy có những cửa đỏ biển son. Vén áo đi vào cửa này thì thấy san-sát những tòa rộng dãy dài, có đến hơn trăm người thắt đai đứng hầu sau trước. Giữa có hai vị mặc áo bào tía ngồi đối-diện nhau ở bên một cái án, đưa mắt cho viên-chức kia bảo lấy sổ son của họ Dương ra xem, một lát hai vị cùng nhìn nhau bảo rằng:

— Dương-gian thật không có người nào được thế, cứu sống cho mọi người nhiều lắm. Chỉ tiếc hưởng tuổi không dài và dòng sau không người nối-dõi. Người như thế mà không biểu-dương thì làm sao khuyến-khích cho kẻ khác được; ta sẽ phải tâu lên Thượng-đế.

Bèn truyền cho Đức Công hẵng xuống tạm nghỉ ở cái hành-lang phía đông. Chừng độ nửa ngày, hai vị ấy lại sai dẫn Đức Công vào, bảo rằng:

— Nhà ngươi ngày thường vốn có tiếng là người lương-thiện. Thượng-đế khen-ngợi, ban cho một người con trai tốt và cho sống lâu thêm hai kỷ[1] nữa. Nên mau về đi mà cố-gắng làm điều âm-đức, đừng bảo là trên cõi minh-minh không biết gì đến.

Đoạn sai viên-chức kia dẫn về. Khi ra khỏi cửa, Dương hỏi rằng:

— Chẳng hay đây là dinh tòa nào? Ai là chủ-trương và coi giữ công-việc gì?

Viên-chức ấy nói:

— Đấy là một tòa trong 24 tòa ở Phong-đô; phàm người mới chết đều phải qua cả. Người nào tên ghi ở sổ son, may ra còn có khi sống mà về được, chứ đã tên ghi sổ mực thì chẳng còn mong gì. Nếu ông không phải người xưa nay hết lòng làm thiện thì cũng khó bề thoát được.

Bèn cùng nhau chia tay từ-biệt, rồi ông bừng tỉnh như một giấc chiêm-bao.

Bà vợ cũng nói là đêm qua lúc cuối canh một, có ngôi sao nhỏ rơi vào lòng, lòng bỗng thấy rung-động. Rồi bà có mang, đầy năm sinh ra được một cậu con trai, đặt tên cho là Thiên Tích. Tính Thiên Tích thích uống trà lắm, thường tự ví mình như Lư Đồng, Lục Vũ[2] đời xưa. Song thiên-tri cao-mại, học-vấn rộng-rãi, phàm sách-vở văn-chương cổ kim, không cái gì là không thiệp-liệp. Đức Công mầng mà rằng:

— Thế là ta có dòng giống rồi!

Bèn chuyên đem những nghĩa-lý chân-chính dạy con. Sau đó 24 năm thì rồi ông vô bệnh mà mất; Thiên Tích thương-xót rất mực, xa gần ai nấy đều cảm-động.

Khi đã hết tang, Thiên Tích sớm hôm học-hành, không hề trễ-biếng. Nhưng gia-cảnh nghèo-nàn, ăn tiêu không đủ. Thường tìm những nhà có con gái xin vào ở rể, nhưng chẳng ai nhận cả. Láng-giềng hàng-xóm, họ thấy nghèo thường đem lòng khinh. Chàng than rằng:

— Cha ta thuở trước cứu sống được cho hàng nghìn người, mà rút lại không cứu sống được một đứa con. Làm thiện như thế phỏng có ích gì!

Nói chưa dứt lời, bỗng thấy một người áo mũ chững-chạc, tự xưng là quan đại-phu họ Thạch, đến vái chào mà rằng:

— Ngày xưa tôi từng chịu ơn dày của Dương-công, không biết lấy gì đền-báo. Có đứa con gái là Hán Anh, vậy xin hiến cậu để hầu-hạ chăn-gối. Cậu nên tự bảo-trọng lấy mình, đừng vì cớ nghèo mà để tiêu-mòn mất trí-lự.

Nói xong chợt biến đi đằng nào mất. Thiên tích rất lấy làm quái lạ, bèn ghi-nhớ lấy những lời nói ấy. Nhân nghe ở huyện Tiên-du có Trần tiên-sinh dạy học trò đến mấy trăm người, bèn cắp sách đến theo học, ở ngụ tại một nhà trong xóm Thanh-lân. Xóm ấy có một nhà giàu-có họ Hàng, thấy sinh mặt-mũi khôi-ngô, văn-chương thông-thái, có cái ý muốn kén vào ngôi đông sàng. Người chồng bảo vợ rằng:

— Nhà ta mấy đời lấy nghề buôn bán mà khởi-gia, hiện tiền-của chẳng thiếu gì, chỉ thiếu có người rể tốt. Nay có Dương-sinh ở trọ bên láng-giềng, thật là một tay hào-kiệt ở Nam-châu; vả xem tướng-mạo, sau này chắc có thể làm nên. Con bé nhà ta tuổi cũng lớn rồi; mối duyên trao tơ, ngoài đám ấy thì còn đám nào hơn nữa!

Vợ cũng bằng lòng. Họ Hoàng bèn đón Dương-sinh đến làm rể, phàm những phí-tổn về lễ-lan khách-khứa, hết thảy đều tự bỏ ra cả. Sinh rất mừng-rỡ và sung-sướng. Nhưng thường trong lúc vắng-vẻ, sinh hay ngồi ngẩn ra nghĩ-ngẫm, gấp sách lại thở dài. Người vợ một khi bắt gặp, nhân hỏi-han duyên-cớ. Sinh nói:

— Ngày xưa tôi thấy có vị thần hiện lên, bảo tôi sẽ lấy người vợ họ Thạch tên là Hán Anh. Nay tôi may-mắn được vào làm rể chốn cao-môn. Như thế là lời thần bảo về việc ấy không đúng; vậy chắc việc thành-đạt sau này cũng không đúng nốt, vì thế cho nên tôi không khỏi bận lòng.

Người vợ nghe nói giàn-giụa nước mắt mà rằng:

— Đó tất là cha thiếp đấy. Thiếp thuở nhỏ tên là Hán Anh, cha thiếp họ Thạch tên là Mang, làm quan Thú ở Tuyên-quang, bị quan trên vu-hãm, cả nhà phải bắt rồi chết trong ngục. Bấy giờ thiếp đương còn trẻ-dại, nghe nói có ông Dương Đức Công thương là vô tội, hết sức chống-cự với những viên quan khác, rồi tha cho thiếp được ra khỏi ngục tù. Tấm thân hèn yếu, may được sống còn, nghiêm-đường ở đây thương-hại, mới nuôi làm con nuôi. Thiếp nương tổ tò-vò đã mười năm nay, thực thì vốn là con của quan đại-phu họ Thạch.

Sinh kinh-ngạc nói:

— Thế thì tôi chính là con của Đức Công. Mới biết xưa nay vợ chồng, chẳng ai là không bởi túc-duyên; ai dám bảo lá thắm chỉ hồng là những câu chuyện hão!

Sinh thấy mối nhân-duyên lạ-lùng, tình-ái vợ chồng càng thêm thắm-thiết. Vì trong đã có chỗ nương-thân, ngoài không phải lo hồ-khẩu, nên sinh được thảnh-thơi để chí về đường văn-học, rồi đi thi hai khoa đều đỗ. Ban đầu sinh lĩnh một giáo-chức ở kinh, sau thăng lên Đề-hình, trải hai-mươi năm, làm nên đến một vị quan lớn. Ông là người thờ vua thì trung, giữ mình thì liêm, trải thờ hai triều, chốn miếu-đường lấy làm ỷ-trọng. Song vì lúc bé nghèo-nàn, lắm người khinh-mạn, rồi ân bằng cái tơ, oán bằng cái tóc, ông đều nhất báo-phục cả, đó là chỗ kém mà thôi. Một lần ông lập một đàn-tràng làm lễ kỳ-yên, đón đến vài trăm vị đạo-sĩ mũ cao áo rộng cúng-vái linh-đình. Kế rồi có một vị đạo-sĩ áo rách giày nát thất-thểu đi đến. Người coi cổng không cho vào, nhưng đạo-sĩ cố nài mãi. Người coi cổng vào bẩm thì ông quát mắng sai đuổi ra. Đạo-sĩ vừa đi vừa phàn-nàn:

— Cố-nhân tìm cố-nhân, không ngờ cố-nhân lại bạc tình như vậy. Cái nạn Ô-tôn sau này, xin đừng phiền bận đến nhau thôi, và đừng trách cố-nhân là phụ cố-nhân.

Ông nghe nói, sai người đuổi theo mời lại, xuống thềm đón tiếp. Ngồi chơi xong, đạo-nhân nói:

— Tướng-công ngày nay quan ngồi miếu-điện, đất dựng lâu-dài, đi có lính dẹp đường, ở có chuông giữ gác[3], phú-quí ở nhân-gian đã đến cùng-cực, không còn nhớ gì đến thú vui ở chốn Tử-vi xưa ư?

Ông nói:

— Thú vui ở Tử-vi thế nào tôi chưa được rõ.

Đạo-nhân nói:

— Ông bị sống dục vùi-lấp đến nỗi mê-man thế, vậy tôi xin kể ông nghe. Khi xưa ông vốn là một gã trà-đồng của đức Thượng-đế mà tôi thì là kẻ tửu-lại ở chốn tinh-tào[4] hằng ngày chầu-chực ở cung Tử-vi, vẫn cùng nhau thân-cận. Một hôm, Thượng-đế bãi triều, bảo với quần-tiên rằng: « Các người ai bằng lòng xuống chơi xem hạ-giới, lĩnh chức tể-tướng hơn mười năm? ». Quần-tiên đều trông nhau chưa ai nói gì thì ông vui-vẻ vâng lời. Thượng-đế phán: « Ừ đi đi. Thú vui ở nhân-gian chẳng kém gì ở Thiên-tào, đừng nên cho chốn trần-hoàn là chật hẹp ». Bấy giờ tôi đứng chầu một bên, cho nên được biết rõ lắm.

Nói rồi đạo-nhân đưa cho Dương Thiên Tích một hạt linh-đan. Dương uống xong thì thấy tâm-hồn tỉnh sáng, dần dần nhớ ra hết những việc kiếp trước. Rồi ông nói:

— Lai-lịch của tôi, tôi đã được nghe qua. Còn ông, sao ông lại ở dưới đời này?

Đạo-nhân nói:

— Tính tôi tềnh-toàng, lại hay uống rượu, nên Thượng-đế ngài quở-phạt và đày xuống trần đã gần được ba kỷ nay rồi. Nay kỳ đày đã mãn, lại bổ vào chức cũ ở chốn tinh-tào; vì cùng ông có tình cố-cựu, nên đến qua thăm một chút.

Ông Dương lại hỏi về câu chuyện Ô-tôn. Đạo-nhân buồn-rầu không vui, bảo đuổi tất cả mọi người ra rồi nói:

— Sau 5 năm nữa, ông có việc đi bể, tôi e bấy giờ sẽ gặp một tai-nạn rất lớn.

Ông Dương hỏi vì tội-lỗi gì mà gặp phải tai-nạn. Đạo nhân nói:

— Ông làm Tể-tướng, kể thì không có lầm-lỗi gì. Chỉ có rằng tại chức lâu ngày, hay yêu người này ghét kẻ khác. Nay thì sự thù-oán đã sâu-cay lắm, hồn oan đã đầy-rẫy ở ngoài đường rồi.

Ông nói:

— Vậy thì muốn tránh vạ nên như thế nào?

Đạo-nhân nói:

— Không ngại. Tôi vốn tên là Quân Phòng. Nếu khi cần kíp, ông cứ đốt một nén hương rồi gọi tên tôi, tôi sẽ đến cứu giúp.

Đêm hôm ấy hai người cùng ngủ. Ông Dương nói:

— Ông đã là chỗ tương-tri, có điều gì hay để dạy bảo tôi chăng?

Đạo-nhân nói:

— Này đức là nền từ-thiện, của là kho tranh-giành. Tích đức như mầm non rỏ một giọt nước, sẽ nẩy-nở lên, tích của như lửa đỏ gieo một khối băng, sẽ tàn-lụi xuống. Huống chi không vun mà lớn là mầm thiện-ác, không giữ mà đầy là cơ phúc-họa, cái tình-hình ỷ-phục trong đó thật là đáng sợ. Ông nên trân-trọng, cố gắng mà làm những điều nhân.

Ông Dương nói:

— Tôi nghe đạo trời công-minh như cái cân cái gương, có thần-minh để ghi dấu-vết, có tạo-hóa để giữ công-bằng; gương tất soi-suốt mà không riêng, lưới tuy thưa-thớt mà không lọt. Phép thật chí nghiêm mà chí mật, người nên không oán cũng không hờn. Cớ sao những sự khuyên-răn lại thấy lắm điều lộn-xộn. Làm sự lợi vật chưa nghe thấy được phúc; làm sự hại nhân, chưa nghe thấy mắc nàn. Kẻ nghèo có chí cũng thành không; người có muốn gì cũng được nấy. Có người chăm học mà suốt đời không đỗ; có nhà xa-hoa mà lũy-thế vẫn giàu. Ai bảo rằng trao mận giả quỳnh, thế mà vẫn trồng dưa được đậu. Đó là những sự mà tôi rất nghi-ngờ không hiểu.

Đạo-nhân nói:

— Không phải như thế. Thiện ác tuy nhỏ cũng rõ-rệt, báo-ứng dù chậm nhưng lớn-lao. Âm-công khi rõ-ràng ra, phải đợi quả thiện được tròn-trặn, dương-phúc khi tiêu-tán mất, phải chờ mầm ác đã cao-dài. Có khi sắp duỗi mà tạm co, có khi muốn đè mà thử nống. Có hạnh mà nghèo, hoặc bởi tội-khiên kiếp trước, bất-nhân mà khá, hẳn là phúc thiện đời xưa. Tuy rằng khó biết sâu-xa, nhưng thực không sai tơ tóc. Cho nên không nên lập-luận một bề và xem trời một mặt.

Đạo-nhân nói như vậy đến mấy nghìn lời, đều ngụ cái ý khuyên-răn cả. Ông Dương rất vui-vẻ nghe theo.

Sáng hôm sau, trong lúc lâm-biệt, ông đem 10 đĩnh vàng tốt để tiễn chân. Đạo-nhân cười mà rằng:

— Hà tất như thế để làm gì! Tôi chỉ khuyên ông cố làm điều lành, để tôi khỏi trở lại gặp ông lần nữa, đó tức là ông đã cho cố-nhân nhiều lắm.

Sau khi ông Dương Thiên Tích quả vì tâu việc làm trái ý vua, bị vua đày đuổi vào Nam. Khi đi qua cửa Khẩu-hải (ở huyện Kỳ-anh tỉnh Hà-tĩnh), đương giữa ban ngày sáng-sủa, bỗng một đám mây đen kéo lên, gió nam nổi dậy ầm-ầm, từng đợt sóng nổi lên như núi. Chợt có hàng trăm giống ma-quái ở đâu kéo đến cùng hô-reo lên rằng:

— « Kẻ thù của chúng ta đã đến đây rồi! Hôm nay chúng ta được cam lòng với hắn ».

Rồi kẻ vít cuối thuyền, kẻ leo đầu thuyền, thuyền chòng-chành mấy lần xuýt lập sấp xuống. Ông Dương vội hỏi người lái thuyền đây là nơi nào thì y nói là đất Ô-tôn. Ông mới sực nhớ đến lời Đạo-nhân, bèn theo như cách đã dặn mà gọi tên ông ta. Thoắt chốc, quả thấy một cỗ xe mây bay đến, đứng dừng lại ở trên không, hai bên có ngọc-nữ tiên-đồng chầu-hầu rất nghiêm-túc. Đạo-nhân gọi với lũ quỷ mà bảo rằng:

— Lũ mầy đắm-đuối, nghiệp-chướng nặng-nề, thuở sống đã phạm vào điển-chương, lúc chết lại gây thêm tội-nghiệt, oan-oan nối tiếp biết thuở nào thôi! Sao không rửa ruột đổi lòng, quay về đường chính. Ta sẽ tâu lên Thượng-đế, tẩy hết những oan-hồn đi cho.

Chúng quỷ nghe nói đều sung-sướng nhảy-nhót rồi trong chốc lát tan-giãn đi cả.

Ông Dương khẩn-khoản khuyên mời xe tiên giáng xuống để được hỏi-han mọi việc sau, nhưng trong thoắt chốc đã không thấy gì nữa.

Rồi đó gió êm sóng lặng, thuyền đi được chót-lọt đến bờ. Dương bèn từ-giã vợ con rồi không biết đi đàng nào mất. Sau có người gặp Dương ở núi Đông-thành, người ta ngờ là đã đắc đạo thành tiên.


Lời bình

Than ôi, làm thiện ở người, giáng phúc cho người thiện ở trời, sự cảm-ứng ở giữa khoảng trời và người, thật là sâu mờ vậy thay!

Đức-công là một viên quan xử án, chỉ vì hay xét rõ được nỗi oan-uổng cho người, mà sự dương báo của trời, đã bảo rõ cho ở trong cơn mê-mệt. Huống chi người làm chức tể-tướng cầm quyền thiên-hạ, giúp đấng Thiên-tử sửa-trị âm-dương, giữ lòng cho ngay để róng-rả mọi người, suy rộng ra mà làm những chính-trị tốt, khiến trong khoảng trời đất, không một vật gì là không đắc-sở, thì trời ban phúc cho còn đến thế nào.

Đến như việc của Thiên Tích, có lẽ chỉ là cái vết của hòn ngọc bạch-khuê. Nhưng dù là cái vết, giá mài bỏ được đi thì càng tốt lắm. Ta mong những người làm quan nên biết cố-gắng và nên biết soi gương.

   




Chú thích

  1. Mười hai năm là một kỷ.
  2. Hai người nghiện chè đời xưa.
  3. Dương Hỗ đời Tần làm Đô-đốc Kinh-châu, trong gác đặt quả chuông rung để phòng-ngừa sự cảnh-cấp.
  4. Tửu-lại là một viên-chức coi kho rượu; tỉnh-tào là dinh tòa của các vị sao.