Bước tới nội dung

Truyền kỳ mạn lục/12

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Truyền kỳ mạn lục  (1547?)  của Nguyễn Dữ, do Ngô Văn Triện dịch
Câu chuyện đối-đáp của người tiều-phu núi Na

CÂU CHUYỆN ĐỐI-ĐÁP CỦA NGƯỜI TIỀU-PHU NÚI NA


Đất Thanh-hóa phần nhiều là núi, bát-ngát bao-la đến mấy nghìn dặm. Trong đó có một ngọn núi cao chót-vót, tên gọi núi Na[1]. Núi có cái động, dài mà hẹp, hiểm-trở mà quạnh-hiu, bụi trần không bén đến, chân người không bước tới. Hằng ngày trong động có người tiều-phu gánh củi đi ra, đem đánh đổi lấy cá và rượu, cốt được no say chứ không lấy một đồng tiền nào. Hễ gặp ông già trẻ con dưới đồng bằng, lại nói chuyện những việc trồng dâu trồng gai một cách vui-vẻ. Ai hỏi họ tên nhà cửa, tiều-phu chỉ cười không trả lời. Mặt trời ngậm núi, lại thủng-thỉnh về động. Người đương thời cho là người thuộc hạng Thần-môn Tiếp Dư[2], chứ Thái Hòa[3] trở xuống đều không đủ kể.

Sau đến năm Khai-đại nhà Hồ, Hán Thương đi săn, chợt gặp ở đường, thấy đương vừa đi vừa hát rằng:

那 之 山 有 石 𡻖 岏
Na chi sơn hữu thạch toàn ngoan
樹 蒼 蒼
Thụ thương thương
烟 莫 莫
Yên mịch mịch
水 潺 潺
Thủy sàn sàn
朝 兮 吾 出
Triêu hề ngô xuất
暮 兮 吾 還
Mộ hề ngô hoàn
有 衣 兮 製 芰
Hữu y hề chế kỹ
有 佩 兮 紉 蘭
Hữu bội hề nhận lan.
闥 排 青 兮 屏 曉 瘴
Thát bài thanh hề bình hiểu chướng,
田 護 綠 兮 枕 睛 灘
Điền hộ lục hề trẩm tình than.
任 他 朝 市
Nhậm tha triều thị
任 他 車 馬
Nhậm tha xa mã

緇 塵 不 到 此 江 山
Tri trần bất đáo thử giang-san.
幽 草 宋 朝 弓 劍
U thảo Tống triều cung kiếm,
古 丘 晉 代 衣 冠
Cổ khâu Tấn đại y quan
王 謝 風 流
Vương Tạ phong-lưu
趙 曹 事 業
Triệu Tào sự nghiệp
算 往 古 來 今 卿 相
Toán vãng cổ lai kim khanh tướng,
石 篆 苔 漫
Thạch triện đài man
爭 如 我 掉 頭 一 覺
Tranh như ngã trạo đầu nhất giác
紅 日 三 竿
Hồng nhật tam can.

Dịch:

Núi Na đá mọc chênh-vênh,
Cây tùm-um, nước long-lanh khói mờ.
Đi về hôm sớm thẩn-thơ,
Mình dư áo lá, cổ thừa chuỗi hoa.
Non xanh bao-bọc quanh nhà,
Ruộng đem sắc biếc xa xa diễu ngoài.
Ngựa xe võng lọng thây ai,
Nước non riêng chiếm, bụi đời khôn vương
Áo đai đời Tấn gò hoang,
Kiếm cung triều Tống dưới làn cỏ xanh[4]

Sự đời bao xiết mong-manh
Phong-lưu Vương, Tạ, công-danh Triệu, Tào[5]
Từ xưa khanh tướng ngôi cao,
Đá mờ rêu phủ đã bao nhiêu rồi.
Sao bằng ta được thảnh-thơi,
Giấc mai bừng tỉnh mặt trời lưng không.

Hát xong rồi phất áo đi thẳng. Hán-Thương đoán chắc đó là một vị ẩn-giả, bèn sai quan hầu là Trương-công đi theo mời lại. Nhưng Trương theo gần đến nơi thì người ấy đã rảo bước vào động, vội gọi cũng không trả lời, chỉ thấy cưỡi mây lách khói, đi thoăn-thoắt trong khoảng cành tùng khóm trúc. Biết đó không phải là người thường, bèn rón bước theo sau, rẽ cỏ lấy đường, đi ước chừng 2, 3, dặm. Song đường núi gập-ghềnh, càng vào sâu càng khó đi lắm, rồi trong thoắt chốc đã chẳng thấy người ấy đâu cả. Ngẩng lên trông, tà-dương đã gác đầu núi, cây cỏ đã bắt đầu lờ-mờ, bàng-hoàng muốn về, nhưng đã không kịp. Bỗng nghe thấy có tiếng gà gáy ở trên một chòm cây trúc, Trương mừng mà rằng:

— Đây đến chỗ có nhà người ở cũng không xa gì.

Chống gậy trèo lên thì thấy có một cái am cỏ, hai bên tả hữu trồng mấy cây kim-tiền, chen lẫn vào những cây bích-đào hồng-hạnh, đều xanh tốt đáng yêu cả. Trong am đặt một cái giường mây; trên giường để đàn sáo và chiếc gối dựa. Hai bên bức vách đông tây đều chát keo trắng và đề hai bài ca, một bài là « Thích ngủ », một bài là «Thích cờ».

Bài ca thích ngủ

吾 何 愛?愛 惟 眠
Ngô hà ái? ái duy miên,
愛 爲 安 舒 性 適 然
Ái vị an thư tính thích nhiên
淺 墨 帳 添 新 富 貴
Thiển mặc trướng thiêm tân phú quý
矮 藤 牀 結 舊 因 緣
Ủy đằng sàng kết cựu nhân-duyên
梅 之 軒 竹 之 園
Mai chi hiên trúc chi viên
幽 居 趣 味 有 林 泉
U cư thú vị hữu lâm tuyền.
青 奴 擁 後
Thanh nô ủng hậu
紅 友 羅 前
Hồng hữu la tiền
媒 引 黑 甜 勝
Môi dẫn hắc điềm thắng,
景 涼 思 輕 便
Cảnh lương tứ khinh biền
雙 掩 耳 紅 塵 世 上
Song yểm nhĩ hồng trần thế thượng,
小 曲 肱 白 屋 雲 邊
Tiểu khúc quăng bạch ốc vân biên
寄 傲 草 廬 南 陽 閑 日 月
Kỳ ngạo thảo lư, Nam dương nhàn nhật-nguyệt
欠 伸 雲 觀 趙 宋 窄 山 川
Khiếm thân Vân-quán, Triệu-Tống trích sơn xuyên
北 牕 吟 魂 易 觸
Bắc song ngâm hồn dị súc,
西 堂 春 夢 常 圓
Tây đường xuân mộng thường viên

書 樓 初 捲 夕
Thư lâu sơ quyển tịch,
酒 店 欲 晴 天
Tửu điếm dục tình thiên
玄 鶴 黄 州 夜 夜
Huyền-hạc Hoàng châu dạ dạ
美 人 湘 水 年 年
Mỹ-nhân Tương thủy niên niên
有 時 向 醉 鄉 打 卧
Hữu thời hướng túy hương đả ngọa
草 鋪 茵 花 鋪 幄 地 鋪 氈
Thảo phô nhân, hoa phô ốc, địa phô chiên
彭 澤 夜 深 半 簾 殘 月
Bành trạch dạ thâm, bán liêm tàn nguyệt;
濂 溪 院 靜 一 枕 啼 鵑
Liêm khê viện tĩnh, nhất trẩm đề quyên.
任 人 道 爲 懶 夫 士 爲 渴 睡 漢 爲 隱 神 仙
Nhiệm nhân đạo vi lãn phu sĩ, vi khát thụy hán, vi ẩn thần tiên.

Dịch:

Thích gì? ta thích ngủ thôi,
Vì chưng ngủ được trong người sởi-sang.
Nhân-duyên xe chặt giường màn,
Trúc, mai, rừng, suối, muôn vàn cảnh thanh.
Quanh mình bạn đỏ hầu xanh[6]
Giấc ngon bừng tỉnh tâm linh nhẹ vèo.
Bưng tai chuyện thế eo sèo,
Khoanh tay ngất-ngưởng nằm khoèo bên mây

Lều tranh một túp xinh thay,
Nam-dương nọ kẻ tháng ngày thảnh-thơi[7].
Quán Vân uể-oải nằm dài,
Non sông coi nhỏ kìa ai Tống triều[8]
Lầu tây song bắc tiêu diêu
Khi mai quán rượu, lúc chiều hiên thơ.
Sông Tương người đẹp trong mơ[9],
Châu Hoàng bóng hạc vật-vờ cao bay[10]
Có khi ngủ tít làng say,
Đất giường, cỏ đệm, hoa vây làm màn.
Uyên-minh ngủ dưới trăng tàn[11]
Liêm-khê gối chợp tiếng ran quyên gào[12]
Chê khen ai bảo thế nào:
Đồ lười biếng, bậc thanh cao, mặc lòng.

Bài ca thích cờ

吾 何 愛?愛 惟 棋
Ngô hà ái? ái duy kỳ,
愛 爲 風 雲 變 態 奇
Ái vị phong vân biến thái kỳ.
劣 處 類 龍 蛇 失 勢
Liệt xứ loại long xà thất thế,
勝 邊 如 熊 虎 揚
Thắng biên như hùng hổ dương uy.
車 雙 馳 馬 雙 飛
Xa song trì, mã song phi
渡 河 一 卒 靠 重 圍
Độ hà nhất tốt kháo trùng vi
北 南 相 界 形 勢 相 依
Bắc nam tương giới, hình thế tương y
方 園 動 靜 妙 算 無 遺
Phương viên động tĩnh, diệu toán vô di
春 寂 寂 乍 敲 殘 夢
Xuân tịch tịch xạ khao tàn mộng
手 搖 搖 櫳 磅 院 泥
Thủ dao dao lung toái hương nê,
獨 樂 園 中 賓 朋 初 定 候
Độc lạc viên trung, tân bằng sơ định hậu,
黄 州 樓 曉 酩 酊 半 醒 時
Hoàng châu lâu hiểu, mính đính bán tinh thì.
晝 永 天 留 客 久
Chú vĩnh thiên lưu khách cửu,
庵 高 子 落 聲 遲
Am cao tử lạc thanh trì
院 教 慵 妾 掃
Viện giao dung thiếp tảo
簾 許 小 童 窺
Liêm hứa tiểu-đồng khuy

贏 輸 賭 江 山 半 局
Doanh thâu đổ giang-sơn bán cục
功 名 消 得 失 閒 機
Công danh tiêu đắc thất nhàn ky
渾 不 覺 一 天 向 夕
Hồn bất giác nhất thiên hướng tịch
月 斜 牕 烟 斜 篆 竹 斜
Nguyệt tà song, yên tà triện, trúc tà chi
神 仙 閑 中 度 日
Lãng uyển thần tiên, nhàn trung độ nhật,
長 安 公 子 醉 裏 忘 歸
Trường-an công-tử, túy lý vong quy
相 對 處 兼 些 琴 兼 些 畫 兼 些 壁 題 詩
Tương đối xứ kiêm ta cầm, kiêm ta họa, kiêm ta bích đề thi.

Dịch:

Thích gì? ta thích cờ thôi
Gió mây biến hóa ai ôi lạ-lùng.
Cơn thua, rồng rắn khi cùng,
Mà xem lúc thắng hổ hùng dương oai.
Ngựa xe giong ruổi đường dài,
Sang sông một tốt hãm ngoài trùng vi.
Bắc nam hình thế riêng chia,
Tới lui động tĩnh tính suy đủ đường.
Xuân êm khua tỉnh giấc vàng,
Con cờ đập mạnh hương đàn thoảng bay[13]

Vườn riêng sum-họp bạn bầy[14],
Châu Hoàng lầu Trúc rượu say nửa vời[15]
Ngày dài lưu khách ngồi chơi,
Am cao điểm tiếng quân rơi trước bàn.
Tiểu-đồng ngấp-ngó bên lan,
Cô hầu quanh viện quét làn lá rơi,
Giang-sơn vật lộn tay đôi,
Công-danh quên bẵng chuyện đời hơn thua.
Ngày vui thời khắc êm đưa,
Trăng tà hương lạnh trúc ngơ-ngẩn cành.
Thần tiên nhàn-nhã vườn quỳnh,
Trường-an công-tử thích tình vui say.
Trong khi vui nước cờ hay,
Thêm đàn thêm rượu thêm đầy vách thơ.

Bấy giờ tiều-phu đương ngồi ở cái hiên đá, dạy con chim yểng học nói; bên cạnh có vài cậu trẻ nhỏ ngồi đánh cờ. Thấy Trương đến, tiều-phu kinh-ngạc mà rằng:

— Chỗ này quạnh-vắng, đất thẳm rừng sâu, chim núi kêu ran, muông rừng chạy vẩn, sao ông lại lần-mò tới đây như vậy, chẳng cũng khó-nhọc lắm ư?

Trương nói:

— Tôi là chức quan Cung-phụng của đương-triều; vì ngài là bậc cao-sĩ, nên tôi được vâng mệnh đến đây tuyên triệu. Hiện có loan giá ở ngoài kia, xin ngài ngoảnh lại một chút.

Tiều-phu cười mà rắng:

— Ta là kẻ dật dân trốn đời, ông lão già lánh bụi, gửi tính-mệnh ở lều tranh quán cỏ, tìm sinh-nhai trong búa gió rìu trăng, ngày có lối vào làng say, cửa vắng vết chân khách tục, bạn cùng ta là hươu nai tôm cá, quẩn bên ta là tuyết nguyệt phong-hoa, chỉ biết đông kép mà hè đơn, nằm mây mà ngủ khói, múc khe mà uống, bới núi mà ăn, chứ có biết gì đâu ở ngoài là triều-đại nào, là vua quan nào.

Bèn mời Trương ở lại đó làm làm một mâm thết, cơm thổi bằng hạt điêu-hồ, canh nấu bằng rau cẩm-đái, lại còn có mấy món rau suối khác nữa. Canh khuya chuyện trò, đều là những lời nghĩa-lý đáng nghe cả, nhưng không có một câu nào đả-động đến thời-sự. Hôm sau, Trương lại mời;

— Những bậc quân-tử đời xưa, không phải là không muốn giúp đời hành đạo; khi mà giấu kín một chỗ, chỉ là còn đợi giá mà thôi. Cho nên tất có bức tiểu-tượng đi tìm rồi sau đồng Thương mới thấm nước[16], tất có cỗ hậu-xa đi chở, rồi sau nội Mục mới thành công[17]. Nay phu-tử lấy tấm thân vàng ngọc, ôm một bọc kinh-luân, ngoài vòng vinh lợi, vùi lấp tiếng tăm trong đám ngư-tiều, dấu tài trí trạch, náu mình chốn rừng suối, vang tiếng đến cửu-trùng, đốt nón lá, xé áo tơi, nay chính là đến lúc rồi đó. Dám xin bỏ bờ đập Phò-nham, ném cần câu Vị-thủy, đừng để uổng hoài khát-vọng của bao kẻ thương sinh.

Tiều-phu nói:

— Kẻ sỉ ai có chí nấy, hà tất phải vậy! Cho nên Nghiêm-Tử-Lăng không đem chức Gián-nghị ở đông-đô, đánh đổi khỏi sóng Đồng-thủy[18], Khương Bá-Hoài không đem bức tranh vẽ của Thiên-tử, làm nhơ non nước Bành-thành[18]. Tài ta tuy kém, so với người xưa chưa bằng được. Nhưng may lại giàu hơn Kiềm-Lâu[19], thọ hơn Vệ-Giới[20], no hơn Viên-Tinh[21], đạt hơn Phụng-Thiến[22], kể thì cũng đã được trời đất ban cho khá nhiều. Nếu lại còn tham cầu những cái ở ngoài phận mình, len-lỏi vào đường sĩ tiến, chẳng những xấu-hổ với các bậc tiền hiền, lại còn phụ-bạc với vượn hạc ở trong núi nữa. Vậy xin ông đi đi, đừng nói lôi thôi gì nữa.

Trương nói:

— Ngài cho là hiện-thời không đủ để cho ngài làm việc được chăng? Nay có đấng Thánh-nhân ngự-trị, bốn bể đều ngóng trông, người Chiêm dâng đất mà xưng thần, quân Minh nộp lễ để xin lui. Lão-qua, Đại-lý các nước cũng đều tranh nhau quy-phục. Hiện chỉ còn thiếu các bậc dật-nhân ở rừng núi ra mà giúp rập, khiến cho huân-đức của Chúa-thượng được sánh cùng các vua Nghiêu, Thuấn ngày xưa. Ngài nếu định trọn đời ẩn-lánh, bắt-chước như Vụ-Quang, Quyên-Tử, thì cứ như vậy không sao. Nhưng nếu còn hơi để ý đến đám dân kia thì bỏ lỡ dịp này không ra, tôi sợ rằng sẽ cùng cỏ cây cùng nát, không bao giờ lại có được dịp gặp-gỡ hay này nữa.

Tiều-phu biến sắc nói:

— Như lời ông nói, há chẳng là khoe-khoang quá, khiến cho người nghe phải thẹn-thùng. Vả vì vua ngự-trị bây giờ, có phải là họ Hồ không?

— Chính phải.

— Có phải là đã bỏ khu Long-đỗ để về ở đất An-tôn không?[23]

— Phải.

— Ta tuy chân không bước đến thị-thành, mình không vào đến cung-đình, nhưng vẫn thường được nghe tiếng ông vua bây giờ là người như thế nào. Ông ấy thường dối-trá, tính nhiều tham dục, đem hết sức dân để dựng cung Kim-âu, dốc cạn của kho để mở phố Hoa-nhai[24], phao-phí gấm-là, vung-vãi châu-ngọc, dùng vàng như cỏ-rác, tiêu tiền như đất bùn, hình-ngục có của đút là xong, quan-chức có tiền mua là được, kẻ dâng lời ngay thì phải giết, kẻ nói điều nịnh thì được thưởng, lòng dân động-lay, nên đã xảy việc quân sông Đáy[25], cõi bờ chếch-mếch, nên đã mất giải đất Cổ-lâu[26]. Vậy mà các kẻ đình-thần trên dưới theo hùa, trước sau nối vết. Duy có Nguyễn Bằng-Cử[27] có lượng nhưng chậm-chạp, Hoàng Hối-Khanh[28] có học nhưng lờ-mờ, Lê Cảnh-Kỳ[29] giỏi mưu tính nhưng không quyết-đoán, Lưu Thúc-Kiệm[30] quân-tử nhưng chưa được là bậc nhân; còn ngoài ra phi là đồ tham tiền thì là tuồng nát rượu, phi là đồ chỉ lấy yên-vui làm thích, thì là tuồng lấy thế-vị mà khuynh-loát nhau, chứ chưa thấy ai biết những kế lạ mưu sâu để lo tính cho dân-chúng cả. Nay ta đương náu vết ở chốn núi rừng, lo lảng tránh đi chẳng được, há lại còn xắn áo mà lội nữa ư?[31]. Xin ông vui lòng trở về, làm ơn từ-chối hộ kẻ cư-sĩ này. Ta không thể đem hòn ngọc Côn-sơn cho nó cùng cháy ở trong ngọn lửa Côn-sơn[32] được.

Trương nói:

— Sự xuất-xử của bậc người hiền, lại cố-chấp đến như thế ư?

Tiều-phu nói:

— Không phải là ta cố-chấp. Ta chỉ ghét những kẻ miệng lưỡi bẻo-lẻo, đã đắm mình vào trong cái trào-đình trọc-loạn, lại còn toan kéo người khác để cùng đắm với mình.

Trương lặng im không trả lời, trở về đem hết những lời của tiều-phu tâu lại với chúa. Hán-Thương không bằng lòng, nhưng còn muốn đem cỗ xe êm để cố đón ra kỳ được, sai Trương lại đi vào lần nữa. Nhưng vào đến nơi thì rêu trùm cửa hang, gai-góc đầy núi, dây leo, cành rậm, đã lấp mất cả lối đi rồi. Chỉ thấy ở trên vách đá có hai câu thơ đề bằng nhựa cây như sau này:

奇 羅 海 口 吟 魂 斷
Kỳ-la hải-khẩu ngâm hồn đoạn,
高 望 山 頭 客 思 愁
Cao-vọng sơn-đầu khách tứ sầu.

Nghĩa là:

Kỳ-la cửa bể[33] hồn thơ đứt,
Cao-vọng đầu non[34] dạ khách buồn.

Ý lời như giọng trào-phúng của họ Nguyên họ Bạch[35], thể chữ như lối triện lệ của ông Lưu ông [36], nhưng rút lại chẳng hiểu là định nói gì, Hán Thương cả giận, sai đốt cháy núi; núi cháy hết vẫn không thấy gì, chỉ thấy con hạc đen lượn lờ trên không bay múa. Sau hai Hồ gặp phải tai-họa đều đúng như lời thơ.

Gã tiều-phu ấy, có lẽ là kẻ sĩ đắc đạo đấy chăng?

Lời bình

Than ôi, có cái thần để biết việc sau, có cái trí để giấu việc trước[37], đó là việc của Thánh-nhân; tiều-phu, tuy là bậc hiền, nhưng đâu đã được dự đến hạng ấy. Tuy nói việc táng-bại của nhà Hồ, đúng như bới cỏ bói rùa, nhưng chẳng qua là nghiệm với lẽ trời, chứng với lòng người, nói nhiều may ra thì tin, đó là cái lẽ đi như vậy. Kẻ làm vua chúa nên lấy sự chính lòng mình để làm cái gốc chính triều-đình, chính trăm quan, chính muôn dân, đừng để cho kẻ xử-sĩ phải bàn ra nói vào là tốt hơn cả.

   




Chú thích

  1. Núi Na ở về địa-phận xã Cổ-định huyện Nông-cống.
  2. Thần-môn là người giữ việc mở cổng thành buổi sớm ở đời Xuân-thu, đó là một bậc hiền-giả lánh đời (Luận ngữ).
    —Tiếp Dư họ Lục tên Thông, người đời vua Chiêu-vương nước Sở, giả cách rồ-dại không chịu ra làm quan, người đương thời gọi là Sở-cuồng, nghĩa là kẻ cuồng nước Sở.
  3. Lam Thái-Hòa, tương truyền là một dật-sĩ cuối đời Đường, thường mặc bộ quần áo rách, một chân xỏ giày một chân giẫm đất, đi lang thang ở đường ở chợ, tay cầm thanh gỗ dài ba thước, uống rượu say nhừ rồi gõ thanh gỗ ấy làm phách mà hát nghêu-ngao.
  4. Thơ Lý-Bạch: Ngô cung hoa thảo mai u kính, Tấn đại y quan thành cổ khâu. Nghĩa là: Hoa cỏ cung Ngô vùi ngõ tối, áo đai đời Tấn lấp gò cao.
  5. Vương-Đạo, Tạ-An là khanh tướng đời nhà Tấn; Triệu-Phổ, Tào-Bân là khanh tướng đời nhà Tống.
  6. Bạn đỏ, chữ là hồng-hữu, tên một thứ rượu. Hầu xanh, chữ là thanh-nô, trỏ vào một thứ gối dựa làm bằng trúc xanh, mùa hạ đặt trên giường để gác chân tay vào cho mát.
  7. Ông Gia-cát Lượng trước khi ra giúp ông Lưu Bị, nằm ngủ khểnh trong túp lều tranh ở đất Nam-dương.
  8. Trỏ vào ông Trần-Đoàn, một bậc cao-sĩ đới Tống, mấy lần vua vời đều từ chối không ra. Trước ở tịnh cốc và luyện khí hơn hai mươi năm tại núi Vũ-dương, sau dời đến quán Vân-đài ở núi Họa.
  9. Xưa có người bắt được cái gối, đêm nào nằm cũng mơ thấy cùng một mỹ-nhân đi chơi trên sông Tương.
  10. Đời Tống, ông Tô Đông-Pha khi bị trích xuống Hoàng-châu (làm quan có lỗi phải đổi đến chỗ xa xôi hay rừng thiêng nước độc, gọi là bị trích), mùa thu cùng bạn đi chơi thuyền trên sông Xích-bích, thấy một con hạc bay qua trên thuyền, rồi đêm ngủ trong thuyền chiêm-bao gặp một đạo sĩ mặc tấm áo lông.
  11. Uyên-minh tức là ông Đào-Tiềm đời Tấn, từ quan về ẩn, nằm ngủ ở dưới cửa sổ đằng bắc, tự coi mình là người đời Hy-Hoàng.
  12. Ông Chu-Liêm-Khê đời Tống có một cái gối, hễ nằm vào ngủ thì nghe thấy tiếng quốc kêu nhân gọi là cái « gối quốc kêu »
  13. Ý nói quân cờ làm bằng gỗ đàn.
  14. Bài ký vườn Độc-lạc của ông Tư-mã Ôn-công có câu: «Chén rượu vui-vẻ buổi xuân thừa, cuộc cờ tiêu-khiển ngày hạ dài».
  15. Vương Nguyên-Chi làm bài ký lầu Trúc ở Hoàng-châu, trong có câu: «Nghi vi kỳ, tử thanh đinh đinh nhiên », nghĩa là nên đánh cờ, tiếng con cờ kêu lát chát.
  16. Vua Cao-tông nhà Thương chiêm-bao thấy Thượng đế cho một người giúp rập rất tốt, bèn theo trong mộng vẽ một bức hình, rồi sai người đem bức hình ấy đi tìm; quả nhiên tìm được ông Phó Duyệt, đương đắp bờ đập ở đất Phó-nham, đón về lập làm tướng. Vua có bảo ông Duyệt: «Trời khi nào đại hạn, dùng ngươi làm mưa rào».
  17. Vua Văn-vương nhà Chu đi săn, gặp ông Lã-Vọng câu cá ở sông Vị-thủy, mời lên chiếc xe sau trở về, tôn làm bậc thầy; ông Lã-Vọng bày đồ bát trận rồi đánh được nhà Ân ở đồng Mục-dã.
  18. a ă Đã chua ở phần đầu: «Nguyễn-Dữ với Truyền-Kỳ Mạn-Lục».
  19. Kiềm-Lâu là một bậc cao-sĩ nhà nghèo, lúc chết chỉ có một cái áo che kín đầu thì hở chân, che kín chân thì hở đầu.
  20. Vệ-Giới đời Tấn, người đẹp văn hay, thọ được 27 tuổi thì mất.
  21. Viên-Tinh là một người học-trò, nghèo cùng chết đói ở dọc đường.
  22. Tuân-Sán đời Ngụy tên tự là Phụng-Thiến, có người vợ đẹp lắm. Sau người vợ ốm chết, Phụng-Thiến cũng chết theo.
  23. Long-đỗ tức là thành Thăng-long; An-tôn là tên một làng ở huyện Vĩnh-phúc (nay Vĩnh-lộc) Thanh-hóa, họ Hồ thiên-đô từ Thăng-long vào đấy.
  24. Kim-âu, Hoa-nhai là hai làng thuộc về huyện Vĩnh-phúc, họ Hồ dựng cung và mở phố ở đấy.
  25. Đáy đây là sông Tiểu Đáy ở địa-hạt tỉnh Vĩnh-yên bây giờ. Tháng 8 năm Kiến-tân thứ hai 2 đời Trần Thiếu-đế Nguyễn Nhữ-Cái nổi lên làm giặc ở đấy, có quân đến hơn một vạn, tung-hoành khắp mấy huyện. Sau do Nguyễn Bằng-Cử dẹp yên được.
  26. Người Minh sai sứ đòi cắt đất, Quý-Ly phải cắt khu Cổ-lâu cả thảy 59 thôn để dâng.
  27. Người Đông-ngạn Bắc-ninh, làm quan nhà Trần đến chức Đông-lộ Yên-phủ-sứ.
  28. Đỗ Thái học-sinh đời Trần Đế-Nghiễn, cuối nhà Hồ làm đến Thị-lang.
  29. Trước làm quan nhà Trần, sau làm quan nhà Hồ đến chức Hành-khiển.
  30. Đỗ đầu khoa Thái-học-sinh cuối Trần.
  31. Trương-Hoa đời Tấn đón mời ẩn-sĩ là Vi-Trung, Trung thác bệnh không ra. Người ta hỏi cớ. Trung nói: «Ta còn đương lo sóng rớt ở cái vực sâu kia nó tràn đến ta, há lại còn xắn áo mà lội nữa ư! »
  32. Chữ ở thiên Thuấn-điển trong kinh Thư: « Hỏa-viêm Côn-cương, ngọc thạch câu phần», nghĩa là: lửa đốt non Côn, ngọc đá đều cháy.
  33. Cửa bể Kỳ-la ở làng Kỳ-la, huyện Kỳ-anh, tỉnh Hà-tĩnh bây giờ. Năm Đinh-hợi (1487), Hồ Quý Ly bị bắt ở đấy.
  34. Núi Cao-Vọng ở làng Bình-lễ, huyện Kỳ-anh, năm Đinh-hợi, Hồ Hán Thương bị bắt đấy.
  35. Nguyên-Bạch là Nguyên-Chẫn tự Vi-chi và Bạch Cư-Dị tự Lạc-thiên, hai thi-sĩ có tiếng đời Đường.
  36. Thái-sử Lưu nhà Chu chế ra lối chữ đại-triện; Thừa-tướng Lý-Tư nhà Tần chế ra lối chữ tiểu-triện.
  37. Những câu này là lời Hệ-từ thượng-truyện trong kinh Dịch.