Bước tới nội dung

Vương Dương Minh/Phần nhì/VI-5

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

5. minh thiện

Cách vật là công phu của thành ý — Thành ý là để dẫn đến chỗ chí thiện. Chí thiện là để thành thân. Thân là chỉ cái hình hài trong ấy có chứa cái tâm: tai, mắt, miệng, mũi, tay chơn là thân. 耳 目 口 鼻 四 肢 身 也 (Truyền Tập Lục, hạ. Trả lời cho Cửu Xuyên.) Thành, là không có vọng — Thành thân, là muốn cho thân không có vọng — Cái công của thành thân là minh thiện.

夫 誠 者 無 忘 之 謂 身 之 誠 則 欲 其 無 忘 之 謂 誠 之 之 功 則 明 善 是 也,

(Thơ cho Vương Thuần Phủ 純 甫 — Văn Lục.)

Thiện, là chỉ cái thể của tâm xử sự vật được ròng theo lý, không có bị nhân ngụy tạp-nhạp vào.

吾 心 之 處 事 物 純 乎 理 而 無 人 僞 之 雜 謂 之 善,

(Cùng một bức thơ cho Vương Thuần Phủ) Thiện là như thế Nó vốn là cái tính của ta. Cho nên Mạnh Tử nói « tính thiện » Thiện ấy không có hình thể gì mà có thể chỉ ra cho được, không có phương sở nào mà định cho được. Thiện không tự nó làm thành một vật được[1], cho nên cũng không thể do chỗ nào mà tìm nó được, nếu không do nơi tâm của ta — Tâm là chủ của thân. Tính cụ hữu nơi tâm. Thiện gốc ở nơi tính. 夫 心 主 於 身, 性 具 於 心 善 原 於 性, (Thơ cho Thuần Phủ.) Phàm tại vật thời là lý, xử vật thời là nghĩa, tại tính thời là thiện. Nhân tùy cái nơi chỉ nó mà tên có khác nhau. Song thật ra đều cũng là thuộc tính của một cái tâm của ta mà thôi. Ngoài tâm không có vật, ngoài tâm không có sự, ngoài tâm không có lý, ngoài tâm không có nghĩa, ngoài tâm không có thiện.

夫 在 物 爲 理, 處 物 爲 義, 在 性 爲 善, 因 所 指 而 異, 其 名 實 吾 之 心 也, 心 外 無 物, 心 外 無 事, 心 外 無 理, 心 外 無 義, 心 外 無 善,

(Thơ cho Thuần Phủ.) Thời cái chí thiện phải cầu ở nơi tâm.

Muốn « minh thiện » (làm cho sáng tỏ cái thiện) tất không phải đi tìm ở đâu xa, không phải dụng công phu gì lạ, hơn là chánh cái tâm vậy. Mà tâm cùng thân cũng là một: chỉ khác nhau ở chỗ tâm chỉ về chủ tể, thân chỉ về hình thể — Vậy thời chánh tâm, tiện thị là thành thân — Muốn thành thân cũng không phải dùng công phu gì khác hơn là chánh tâm, thành ý.

Cho nên minh thiện là cái đạo để thành thân. Không minh được thiện, không thành được thân. Không phải ngoài sự minh thiện còn có cái công gì riêng để thành thân.

明 善 者 誠 身 之 道 也, 不 明 乎 善 不 誠 乎 身 矣, 非 明 善 之 外 刖 有 所 謂 誠 身 之 功 也.

(Cùng thơ cho Thuần Phủ.)

Trước khi thành thân, thời thân chưa thành cho nên mới phải nói minh thiện. Chờ một khi minh thiện đã cực điểm rồi thời ắt thân cũng theo đó mà thành rồi. Nếu tưởng rằng tự có cái công minh thiện riêng, lại có cái công thành thân riêng, thời tách thiện với thân ra làm hai, ấy là khó miễn nỗi sai hào ly thiên lý.

誠 身 之 始 身 猶 未 誠 也 故 謂 之 明 善 之 極 則 身 誠 矣 若 謂 自 有 之 功 是 離 而 二 之 也, 難 乎 免 於 毫 釐 千 里 之 謬 矣,

(Cùng thơ cho Thuần Phủ.)

Rút lại, ở đây cũng như ở nơi khác, Vương Dương Minh không ra ngoài tâm — Muốn thành thân, chỉ minh thiện mà tiện thị thân thành. Muốn minh thiện, chỉ phải chánh tâm thanh ý, mà tiện thị thiện minh. Cho nên minh thiện là công phu của thành thân

  1. Le bien n'est pas une entité.