Bước tới nội dung

Vậy mới phải/II

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

Trời xuân lặng lẽ trong ngoài,
Tứ dân[1] vui thú, tam tài yên ngôi.
Trống đền dục dã mấy hồi,
Quần thần tề tựu, đài lôi[2] công đồng.
Vua chọn lựa trước bệ rồng:
"Thanh-Tuyền học-sĩ, có công triều-đình.
Tấn phong Thiếu-phó[3] Văn-minh,
Đông-cung dạy dỗ, giữ gìn hoàng cơ.
Thanh-Tuyền phỉ bấy ước mơ,
Cuối đầu bái tạ, mong nhờ hoàng ân.
Bãi chầu văn võ tặng mừng,
Nhị-Lôi đô-thống, phừng phừng sôi gan !
Dừng chơn nép đứng bên đàng,
Thanh-Tuyền vừa tới, ngó ngang mà rằng:
"Gẫm ông tài nhện trí lằn[4],
Lược thao chi đó, mà thăng công hầu.
Xem ra thì tốt bộ râu,
Công phu chẳng có, ngao đầu[5] cũng không.
Văn-minh để mổ[6] mới công,
Ra ngoài nanh vút, vào trong cột rường.
Thấy lời khí bạo bất lương,
Thanh-Tuyền cũng gượng, kiếm phương đáp lời.
"Tài ông xuất chúng trong đời,
Dễ tôi chẳng biết, dỉ hơi làm gì?
Lịnh trên phong thưởng chi chi,
Có khi cũng đã, xét suy công rồi.
Thôi đừng hờn giận chi tôi,
Suôi gia lẽ phãi, tài bồi cho nhau"
Nhị-Lôi chẳng xét cạn sâu,
Cứ nài muốn một nhượng trao tước quyền.
Nhiều lời xỉ mạ Thanh-Tuyền,
Lịnh vua chẳng kể, cao niên không vì.
Lý-công tức giận sân si,
Ớm toan trở gót, đơn trì tâu qua.
Nhị-Lôi lửa giận chói lòa,
Nắm tay kéo lại, đá già nhào lăn.
Bá quan can gián lăn xăn,
Kẻ ôm Đô-thống, người dằn Văn-minh.

   




Chú thích

  1. Tứ dân: 4 giai cấp trong dân chúng: sĩ, nông, công, thương; Tam tài: 3 giới của thiên địa: trời, đất, người
  2. Đài lôi: xin hiểu là lôi đài, tức lầu trống, nơi vua truyền khẩu hịch sau tiếng trống lịnh. Không riêng gì Hồ Biểu Chánh mà nhiều văn gia đồng thời như Đào Trinh Nhất - người Bắc sống ở Nam - thỉnh thoảng cũng dùng văn phạm "mới" của Hán Việt, thay vì văn phạm cổ Hán
  3. Thiếu phó : 1. Chức quan cửu khanh ; 2. Thầy của thái, hoàng tử
  4. Tài bằng con nhện, trí bằng con thằn lằn
  5. Ngao đầu: người đỗ đầu một cuộc thi cấp đại học, 1er lauréat du concours d’une académie
  6. Ta, mình