Bước tới nội dung

Việt thi/III-43

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

PHAN THANH GIẢN

81. KÝ NỘI TRỢ

Từ thủa vương xe mối chỉ hồng,
Lòng này ghi tạc có non sông.
Đường mây cười tớ ham giong ruổi.
Trướng liễu thương ai chịu lạnh-lùng.
Ơn nước nợ trai đành nỗi bận,
Cha già nhà khó, cậy nhau cùng.
Mấy lời dặn bảo cơn lâm biệt,
Rằng nhớ rằng quên lòng hỡi lòng.

82. KHI TUYỆT CỐC

I

Trời thời, đất lợi, lại người hòa,
Há để ngồi coi, phải nói ra.
Lăm trả ơn vua, đền nợ nước,
Đành cam gánh nặng, ruổi đường xa.
Lên ghềnh xuống thác thương con trẻ.
Vượt biển trèo non, cám phận già.
Cũng tưởng một lời an bốn cõi.
Nào hay ba tỉnh lại chầu ba.

II

Non nước tan-tành hệ bởi đâu,
Dàu dàu mây bạc cõi Ngao-châu.
Ba triều công cán vài hàng sớ,
Sáu tỉnh cương-thường một gánh thâu.
Trạm Bắc ngày chiều tin điệp vắng,
Thành Nam đêm quạnh tiếng quyên sầu.
Minh-sanh chín chữ lòng son tạc,
Trời đất từ đây mặc gió thu![1]

CHÚ-THÍCH.— Trước khi mất, ông Phan Thanh-Giản có viết sẵn cái triệu chín chữ: Hải-nhai lão thư-sinh tánh Phan chi cữu.

  1. Bài này phần đông học-giả trong Nam đều cho là của cụ Nguyễn đình Chiểu. (Nhà xuất-bản chú).