Việt thi/III-59

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

VÔ DANH THỊ

146, BÁN THAN

Một gánh càn-khôn quảy tếch ngàn,
Hỏi chi bán đó? Gửi rằng: than.
Ít nhiều miễn được đồng tiền tốt,
Hơn thiệt nài bao gốc củi tàn.

Ở với lửa-hương cho vẹn kiếp,
Thử xem vàng-đá có bền gan.
Giận vì nhem-nhuốc toan nghề khác,
Song lệ trời kia lắm kẻ hàn.

CHÚ THÍCH.— Bài thơ này tương truyền là tác-phẩm của ông Trần Khánh-Dư đời Trần, song có người lại nói của một người đời chúa Nguyễn trong Nam. Tuy vậy, không biết đích là của ai, vậy để là Vô danh thị.

147. CUNG-OÁN

Nguyệt lão ghen chi với má hồng,
Triện tàn vắng-vẻ chốn phòng không.
Canh khuya nửa gối trùng eo-óc,
Xuân khóa đầy song, nguyệt lạnh-lùng.
Buồn gợi đèn tàn trơ bóng dáng,
Biếng soi gương sáng sửa bông vòng.
Mảnh tình u-uất khôn bày-tỏ,
Vảy khắp câu-lơn giọt lệ trong.

CHÚ-THÍCH.— Triện tàn là nén hương triện đốt đã tàn.

148. XUẤT THẾ

Thế sự nhìn xem rối cuộc cờ,
Càng nhìn càng ngắm lại càng rơ.
Đánh tan tục niệm, hồi chuông sớm,
Gõ vỡ trần tâm, tiếng mõ trưa.
Chu-tử ngán mùi, nên ấm vải,
Đỉnh-chung lợm giọng, hóa chay ưa.
Lên đàn cứu khổ, toan quay lại,
Bể ái trông ra nước đục lờ.

CHÚ-THÍCH.— Chu-tử là màu đỏ và tía, ý nói sự vinh-hoa phú-quí.— Có người nói bài thơ này là của bà sư ở chùa Non-nước, em gái vua Minh-mệnh.

149. HỎI MUỖI

Hỏi muỗi, mầy sinh giáp-tí nào?
Bay cao bay bổng mặc tiêu-dao.
Ngày thời đủng-đỉnh chơi màn thắm,
Tối lại vo-ve ấp má đào.
Ghẹo khách anh-hùng cơn thức tỉnh,
Trêu người thục-nữ lúc chiêm-bao.
Tiếng vang thiên-hạ người kinh-sợ,
Cung quế phòng tiêu tỏ lối vào.

150. MẢNH SÀNH

Sẩy tay một phút hóa tan tành,
Thiên-hạ còn kêu tiếng sỏi-sành.
Sắc lém dường gươm người gớm mặt,
Rán sao ra mỡ chúng hay danh.
Ghe phen sấp cật nằm trên cát,
Có thủa làm chông đứng trước thành.
Chuông khánh miếu-đường chưa dám sánh,
Gõ nghe cũng có giọng canh canh.

151. CUỘC ĐỜI

Mối tơ ai gỡ lúc này xong?
Một giải trời Nam biết mấy trùng.
Kẻ ứa gan trung giương mắt ngó,
Người liều dạ sắt múa tay không.
Đành bày trung-nghĩa theo tro bụi,
Hoài của giang-sơn trút biển sông.
Ơn nước nợ nhà đành có thủa.
Biết bao chờ đợi, biết bao trông.

152. CHỞ THUYỀN CHƠI TRĂNG

Hà-đông một giải nước trong veo,
Lững-thững thuyền tình chở nặng chèo.

Gợn sóng nhấp-nhô tăm cá lội.
In giòng chấp-chới mảnh trăng treo.
Muốn trôi thơ lá mà than-thở,
Phải mượn tin băng để dập-dìu.
Cây-cối thêm buồn lòng nước cũ,
Ái-ân lạnh-lẽo biết bao nhiêu.

153. GHẸO CÔ SƯ

Nhân bước nhàn-du tới cửa chiền,
Hỏi người qui Phật đã bao niên.
Tóc tơ sao nỡ hoài đưa kéo,
Má phấn can gì để phụ duyên?
Chín kiếp những toan ngồi bệ ngọc,
Mười đời dễ được ngự tòa sen.
Thôi thì nghĩ lại Châu Trần đó,
Trả quách cà-sa nối bút-nghiên.

154. NGÀY THÁNG ĐƯA THOI

Nước chảy hoa trôi chán sự đời,
Ngày qua tháng trọn tựa đưa thoi.
Sớm chiều chớp mắt, câu bay-nhảy,
Sóc hối gang tay, yến dục đòi.
Thấm-thoắt xuân-xanh khôn vững kéo,
Lơ-phơ tóc bạc gật-gù coi.
Khuyên ai đang lúc còn niên-thiếu,
Ngày tháng công-phu gắng kịp thời.

CHÚ-THÍCH.— Sóc là ngày mồng một đầu tháng, hối là ngày cuối tháng.

155. BUỔI CHIỀU MÙA THU

Đầu ghềnh nghi-ngút khí sương mù,
Bảng-lảng trời hôm ngọn gió thu.
Bãi bạc phất-phơ ngư giốc lưới,
Thôn vàng rải-rác mục về trâu.

Ngàn mai, ngại tối chim bay gấp,
Dặm liễu, đè hôm khách bước mau.
Đoái cảnh những thêm lòng mến cảnh,
Nghe đâu văng-vẳng tiếng chuông lầu.