Biên dịch:Nam Ông mộng lục/Thiên 20

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Nam Ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng, do Wikisource dịch từ tiếng Trung Quốc
Trung trực thiện chung

忠直善終
Trung trực thiện chung

范遇、范邁,本姓祝氏,交趾莊仁人也,兄名堅,弟名固,皆少年登高科,有才名。至正間,在陳明王,歷官清要,王以祝氏古無顯人,乃攺祝堅為范遇,固為范 邁。
王叔父為上宰,傳國柄,不避嫌疑,且與宰執有隙,適仇人上變告,誣搆上宰,國相率百官彈劾,議置大辟,獨范邁為御史中丞,固請緩獄慎刑,時上宰被收, 而家臣寮屬、親戚奴僕下獄殺戮甚衆。邁連上諫疏,面折法司,辯析冤屈,人主威怒之前,力爭不巳。

Phạm Ngộ, Phạm Mại bản tính Chúc thị, Giao Chỉ Lỵ Nhân nhân dã. Huynh danh Kiên, đệ danh Cố, giai thiếu niên đăng cao khoa, hữu tài danh. Chí Chính gian, sĩ Trần Minh Vương, lịch quan thanh yếu. Vương dĩ Chúc thị cổ vô hiển nhân, nãi cải Chúc Kiên vi Phạm Ngộ, Cố vi Phạm Mại.
Vương thúc phụ vi Thượng tể, chuyện quốc bính, bất tị hiềm nghi, thả dữ Tể chấp hữu khích. Thích cừu nhân thượng biến cáo vu cấu Thượng tể. Quốc tướng suất bách quan đàn hặc, nghị trí đại tịch, độc Phạm Mại vi Ngự sử trung thừa, cố thỉnh hoãn ngục thận hình. Thời Thượng tể bị thu, nhi gia thần liêu, thuộc thân thích nô bộc hạ ngục sát lục thậm chúng. Mại liên thướng gián sớ diện chiết pháp tư, biện tích oan khuất, nhân chúa uy nộ chi tiền lực tranh bất dĩ.


王叔既幽死,後得誣搆實跡,坐其姦人,王甚慚愧,追贈叔父極隆,乃賜邁詩云
臺烏久矣噤無聲,
整頓朝綱事匪輕,
殿上昂藏鷹虎氣,
男兒到此是功名。
尋遷 叅知政事,在政府多年,有清名。一日微恙,索筆題詩云
自從謫落下人間,
六十餘年一瞬看。
白玉樓前秋夜月,
朝真依舊傍闌干。
書畢,擲筆而逝。有《鏡溪詩集》行于世。遇亦廉正能文,與弟齊名,官至審刑院使而卒。

Vương thúc ký u tử. Hậu đắc vu cấu thực tích, tọa kỳ gian nhân, vương thậm tàm cụ, truy tặng thúc phụ cực long. Nãi tứ Mại thi vân
Ô đài cửu hĩ cấm vô thanh,
Chỉnh đốn triều cương sự phỉ khinh.
Điện thượng ngang tàng ưng hổ khí,
Nam nhi đáo thử thị công danh.
Tầm thiên Tham tri chính sự. Tại chính phủ đa niên hữu thanh danh. Nhất nhật vi dạng, sách bút đề thi vân
Tự tòng trích lạc hạ nhân gian,
Lục thập dư niên nhất thuấn khan.
Bạch Ngọc lâu tiền thu dạ nguyệt,
Triều chân y cựu bạng lan can.
Thư tất, trịch bút nhi thệ. Hữu Kính Khê thi tập hành vu thế. Ngộ diệc liêm chính, năng văn, dữ đệ tề danh. Quan chí Thẩm hình viện sử nhi tốt.

Dịch nghĩa[sửa]

Sống ngay thẳng, chết yên lành


Phạm Ngộ, Phạm Mại nguyên là họ Chúc, người Lỵ Nhân, Giao Chỉ. Anh tên Kiên, em tên Cố, tuổi trẻ đã đỗ đạt lớn, có tài danh. Khoảng năm Chí Chính, làm quan cho Trần Minh Vương, trải nhiều trọng chức. Vương cho họ Chúc trước không có người hiển đạt, bèn đổi Chúc Kiên thành Phạm Ngộ, Cố thành Phạm Mại.

Vương thúc[1] làm Thượng tể, nắm quyền bính, không ngại hiềm nghi, lại xích mích với Tể chấp[2]. Bỗng có kẻ thù dựng chuyện cấp biến, tâu lên vu cáo Thượng tể. Tướng quốc kéo trăm quan đàn hặc, kiến nghị tử hình, riêng Phạm Mại làm Ngự sử trung thừa, cố xin từ từ xét xử thận trọng việc hình. Khi Thượng tể bị bắt, đến gia thần liêu thuộc thân thích tôi tớ đều bị tống giam, giết chóc rất nhiều. Mại liên tiếp dâng sớ can ngăn, trước mặt bẻ bác pháp ty, biện luận phân tích nỗi oan khuất, tranh cãi không thôi trước uy giận của chúa. Vương thúc bị giam chết. Sau, được bằng chứng đáng tin về sự vu cáo, bắt giam kẻ gian, vua rất thẹn sợ, truy tặng thúc phụ cực hậu. Bèn ban cho Mại thơ rằng

Ô đài[3] lâu rồi im bặt tiếng,
Chỉnh đốn triều cương không phải dễ.
Trên điện, ngang tàng như ưng hổ,
Nam nhi như thế mới công danh.

Rồi chuyển làm Tham tri chính sự. Trong chính phủ nhiều năm, rất tiếng tăm. Một hôm ốm nhẹ, cầm bút đề thơ rằng

Từ khi bị đày rơi xuống nhân gian,
Hơn sáu mươi năm một cái nháy mắt.
Trăng đêm thu, trước lầu Bạch Ngọc,
Chầu trời, như cũ, dựa lan can.

Viết xong, vứt bút mà qua đời. Có Kính Khê thi tập lưu hành ở đời. Ngộ cũng liêm chính, giỏi văn, tên tuổi ngang với em. Làm đến Thẩm hình viện sứ thì mất.

   




Chú thích

  1. Tức Huệ Võ Vương Trần Quốc Chấn (hoặc Chẩn), chú ruột đồng thời là bố vợ vua Trần Minh Tông
  2. Có lẽ là Trần Khắc Chung, khi đó giữ chức Đại Hành khiển
  3. Chỉ đài Ngự sử. Theo sách Hán thư, bên cạnh đài Ngự sử của triều Hán có khóm cây, hàng nghìn con quạ đến đậu ở đó. Vì vậy, đài Ngự sử còn gọi là Ô đài tức đài Quạ