Biên dịch:Nam Ông mộng lục/Thiên 4
明王既嗣王位,久之,嫡母生男。至週晬時,英王巡邊在外,家事先決於嗣王。有司以周晬禮請,乃命以世子例行之。有司以王故,難之。王曰:何疑乎?初以嫡嗣未生故,我權在此位。今既生矣,待長,復闢何難?曰:此事前古多危,請慎思之。王曰:順義行之,安危何足慮也!卒以世子例行之。朞年而嫡嗣歿,王甚哀之,君子謂:明王誠心不顧於安危,讓德克光於今古,傳曰有德者,必有其位,其斯之謂歟。 |
Minh Vương ký tự vương vị, cửu chi, đích mẫu sinh nam. Chí chu tối thời, Anh Vương tuần biên tại ngoại, gia sự tiên quyết vu tự vương. Hữu tư dĩ chu tối lễ thỉnh, nãi mệnh dĩ Thế tử lễ hành chi. Hữu tư dĩ vương cố nan chi, vương viết "Hà nghi hồ ? Sơ dĩ đích tự vị sinh, cố ngã quyền tại thử vị ; kim ký sinh hĩ, đãi trưởng phục tích, hà nan ?". Viết "Thử sự, tiền cổ đa nguy, thỉnh thận tư chi" Vương viết "Thuận nghĩa hành chi, an nguy hà túc lự dã". Tốt dĩ Thế tử lễ hành chi. Cơ niên nhi đích tự một, vương thậm ai chi. Quân tử vị Minh Vương thành tâm, bất cố ư an nguy, nhượng đức khắc quang vu kim cổ. Truyện viết "Hữu đức giả tất hữu kỳ vị", kỳ tư chi vị dư? |
Dịch nghĩa
[sửa]
Khi Minh Vương được lên làm vua, ít lâu sau, đích mẫu sinh con trai. Đến ngày đầy tuổi tôi, Anh Vương đi tuần ngoài biên, việc nhà đều do tự vương quyết định. Hữu tư đến thỉnh về lễ đầy tuổi tôi, mệnh rằng tiến hành theo lễ Thế tử[1]. Hữu tư thấy có vương rồi, khó xử. Vương bảo "Ngại cái gì ? Trước đây đích tử chưa sinh, nên ta tạm ở ngôi này ; nay đã sinh rồi, đến khi lớn lên thì trao lại ngôi vua, khó gì ?". Người kia nói "Việc này, trước đây thường sinh nhiều chuyện nguy hiểm, xin nghĩ cho kỹ". Vương nói "Cứ thuận nghĩa mà làm, hơi đâu lo an nguy". Rốt cuộc, dùng lễ Thế tử mà cử hành. Được một năm đích tử mất, vương thương xót lắm. Quân tử cho rằng Minh Vương thành tâm, bất chấp an nguy, đức nhường nhịn sáng soi kim cổ. Truyện[2] nói "Có đức thì tất có địa vị", để chỉ chuyện này chăng ?
Chú thích