Bước tới nội dung

Cổ xúy nguyên âm/Cuốn thứ nhứt/I-8

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

THẤT-NGÔN TỨ-TUYỆT BA VẦN

(Lối thơ này chỉ có bốn câu phải nói sao cho chuốt một hơi, không cần phải đối, dầu có trùng chữ cũng không can chi)

1. — Cậu Ấm giả lời vợ

Mợ bảo vần tây học khó gì,
Cấp lương cho học để đi thi.
Thôi thôi lạy mợ sanh-căng[1] lạy,
Mả tổ nhà tôi thiếu bút chì.

2. — Gái chửa chồng

Xuân xanh cô tuổi đã ngoài hai,
Chứ chửa chồng như để mãi mai?
Khảm ngược về đâu thuyền chửa lái?
Tròng-trành nỡ để nón không quai.

3. — Bánh trôi nước

(Xuân-Hương)

Thân em thì trắng, phận em tròn,
Bảy nổi, ba chìm mấy nước non.
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

4. — Đồng tiền hoẻn

(Yên-đổ)

Cũng khuôn, cũng đúc, cũng lò gang,
Đủ mặt vuông tròn với thế-gian.
Kém cạnh cho nên mang tiếng hoẻn,
Đủ đồng từng đã đóng nên quan.

5. — Ông tượng sành đứng trên non-bộ

Ông đứng làm chi đấy, hỡi ông?
Trơ trơ như đá, vững như đồng.
Đêm ngày gìn giữ cho ai đó?
Non nước đầy vơi có biết không?

6. — Thành pháo

(Nhân có ông Phòng-thành tên là Pháo, nên mới vịnh bài tam-cúc mà nẩy ra tên người)

Tượng tượng, xe xe, đà lẻ rồi,
Sĩ điều, sĩ đỏ chẳng thành đôi.
Đố ai biết được quân gì kết.
Mã đã chui rồi, tốt cũng chui.

7. — Tài ngón chầu

Có phải rằng ông chẳng học đâu,
Một năm ông học một vài câu.
Ví dù vua mở khoa thi trống,
Lạc-nhạn, xuyên-tâm đủ ngón chầu.

8. — Anh vô nghệ

Trời đất sinh ra chán vạn nghề,
Làm thầy, làm thợ, hoặc làm thuê.
Bác này rõ thấy thái-vô-tích,
Sáng vác ô đi, tối vác về.

9. — Ả đào lấy khách

Đàn ai văng vẳng chốn giang hồ,
Nghe tiếng sang sừ ngẩn líu lô.
Thành thị không người tri kỷ tá?
Gánh vàng sao nỡ đổ sông Ngô.

10. — Lời bảo chim cu

Cu hời! cu hỡi! bảo cu hay,
Cu ở đâu mà cu tới đây?
Chớ cậy lồng son, cùng ống sứ,
Có ngày thớt nghiến với dao phay!

  1. Cinquante là năm mươi.