Bước tới nội dung

Gia Long tẩu quốc/Hồi thứ mười bảy

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

HỒI THỨ MƯỜI BÃY

Cứu chơn-lạp Hữu-Thoại hòa Xiêm

Bải binh nhung Chất-Tri nghị ước.



Nói về nước Xiêm-La với nước Cao-man thuở nay hai nước giáp giới lân ban cùng nhau, nên nước Xiêm nhiều khi muốn xâm lược bờ cỏi Cao-man, và bức ép nước Cao-man thần phục, nhưng nước Cao-man cứ giử quyền độc lập, chẵng chịu thuận tùng, chỉ lấy sự tình nghĩa lân ban, mà đối đãi giao-thiệp.

Từ khi vua Xiêm-La là Trịnh quốc-Anh,[1] thấy vua Cao-man thọ tước xưng thần cùng Nguyễn-vương và phục tùng dưới quyền bão hộ của nước Nam ta, nên đem lòng ganh ghét, sợ nước ta ngày sau chiếm đoạt Cao-man, và di dọa tới nước hắn, vì thấy Nam kỳ nầy ngày xưa là địa phận của Cao-man, mà ngày nay nước ta đã chiếm cứ cả thãy: và ngủ-quãng kia ngày xưa là đất nước của Chiêm-Thành, mà ngày nay cũng bị nước Nam ta xâm lăng mà phải diệt quốc, nên quân Xiêm-La gọi ta là một con rắn hổ-mang rất to, nằm dọc theo mé biển mà ăn hết một nước Chiêm-Thành, nuốt hết nữa nước Chơn-Lạp; bây giờ lại còn cất mỏ quay đầu vào đất Nam-Vang, muốn nuốc cả và nước Cao-man luôn thể.

Bởi thế nên bửa nọ vua Xiêm-La hội các quan văn võ lại bàn nghị, quyết đem binh đánh nước Cao-man một trận, đặng đặt quyền bảo hộ của nước hắn, và kiếm thế dứt dây liên lạc của ta đã buộc vào nước Cao-man, đặng làm cho rời rã nhau ra, cho khỏi bề hậu hoạn.

Lúc bấy giờ có một vị đại thần Xiêm, tên là Lang-cốc-xi-Ma tâu rằng:

Muôn tâu bệ hạ, vua Cao-man nhờ Nguyễn-vương dẹp giặc và tôn lên làm vua, nay đã thọ sắc xưng thần cùng Nguyễn-vương nước Nam, và chịu cho nước Nam bão hộ, nếu bệ-hạ bây giờ đề binh khiển tướng qua đánh Cao-man, thế nào Nguyễn-vương cũng cử binh cứu viện, mà đối địch cùng ta, thì binh ta khó bề thắng nỗi.

Vậy xin bệ hạ phải tuyển luyện binh ròng tướng giỏi, rồi thình lình vượt qua biên thùy nước Cao-man, mà tấn tới cho mau, nội mười ngày thì phải đoạt thủ kinh-đô Nam-vang, bắt vua Cao-man cho được, rồi phân binh ngăn ngừa mấy nơi hiểm yếu và mấy ngã đàng sông, đừng cho binh Annam tấn tới, như vậy thì họa may có thủ thắng đặng chăng, nếu bê trể ngày giờ, ắc binh của Annam tấn lên cứu viện Cao-man, thì binh ta không thế gì thắng nỗi.

Vua Xiêm là Trịnh-quốc-Anh nghe tâu liền hạ lịnh sai hai tướng là Chất-Tri với Sô-Xi, mỗi người lãnh một đạo binh ba ngàn và sai Hoàng-tử xiêm lãnh một đạo binh vận tải lương thão theo sau, rồi một đạo kéo qua ngã Đế-thiên dựa phía biển Hồ, còn một đạo kéo qua ngã Com-bông-sơ-năn (Kompongchnan.) Ngày đêm băng rừng vượt núi, lước ải xông đèo, kéo tới như sóng dập gió dùa, tới trấn này thì đánh rạp trấn nấy, quân Cao man chống cự không nổi, bèn kéo nhau chạy lui, rồi chạy tờ cáo cấp về triều xin binh tiếp cứu.

Vua Cao-man là Nặc-In nghe các biên trấn gởi tờ cáo cấp, thì thất kinh, bèn nhóm các quần thần hội nghị, rồi sai Chiêu-căng-Mu tức tốc đem binh kháng cự, nhứt diện xin quan bão-hộ là Hồ-văn-Lân báo tin cho Nguyển-vương ở Saigon hay, đặng đem binh cứu cấp.

Hồ-văn-Lân liền tư tờ về báo cho Nguyển-vương, rồi đem binh ra tiếp với binh Cao-man. Lúc bấy giờ binh Cao-man kéo lên cự chiến cùng binh Xiêm tại Đế-Thiên một trận, song binh Xiêm đông như kiến cỏ, tràn tới như nước bẻ bờ, quân Cao-man cảng cự không lại, phải rút chạy thối lui, quân Xiêm rược theo một đạo gần tới Ô-đông, và một đạo đả vượt khỏi Đế-Thiên địa phận, gặp đạo binh Annam của Hồ-văn-Lân chận lại, xáp chiến với binh Xiêm một trận rất kịch liệt, đánh trọn một đêm, tướng Xiêm liền dừng binh thối hậu.

Tướng Cao-man là Chiêu-căng-Mu, bèn rút binh các tỉnh hội lại Ô-đông mà chống cự, và sai quan tốc xuống Saigon, xin Nguyển-vương đem binh cứu viện.

Lúc bấy giờ nhằm tháng Giêng năm nhâm dần (1782) Nguyễn-vương đặng tờ của Hồ-văn-Lân cáo cấp, liền hội các quan Văn-Vỏ bàn nghị và hõi rằng:

Nay nước Xiêm đem binh xâm phạt Cao-man là nước của ta bão hộ, vậy các quan ai có ý kiến thế nào, hảy trần bẫm cho quã-nhơn nghe thử?

Có quan Hộ-bộ là Trần-phước-Giai tâu rằng:

— Tâu chúa-thượng, hạ thần xét lại việc vua Xiêm-La là Trịnh-quốc-Anh đem binh đánh nước Cao-man, là chủ ý muốn dành quyền bão hộ của ta tại nước ấy. Vì sợ vua Cao-man thần phục nước ta, thì ngày sau sanh đều hậu hoạn cho nước hắn, còn nước ta hiện thời bấy giờ có giặc Tây-sơn Nguyễn-Nhạc là một mối giặc đại thù đại nghịch cùng ta, chưa biết lúc vào hắn cử binh vào Nam mà xâm lăng chinh phạt, nếu bấy giờ ta đem binh cứu viện Cao man, mà đối địch cùng quân Xiêm, chưa biết thắng bại lẻ nào, như may được thắng trận thành công, thì chẵng nói gì, còn nếu bị tranh chiến lâu ngày, e quân Tây-sơn thừa cơ đem binh xông vào, thì ta lấy gì mà ngăn đở trong cơn nguy cấp?

Vậy theo ý hạ thần, thì xin chúa-thượng sai sứ giao hòa cùng Xiêm, để nước Caoman độc lập, ta không bảo hộ Caoman, mà Xiêm củng chẳng đặng quyền bảo hộ nước ấy, như vậy vua Xiêm không còn lo sợ nước Caoman thuộc về tay ta, thì tự nhiên bải binh hết giặc.

Thế ấy đặng ta có ngày giờ dưởng binh súc nhuệ, mà phòng ngự quân giặc Tây-sơn, và thừa dịp mà khôi phục san-hà xả-tắc, đó là một đều cần nhứt của chúng ta phải lo trước hết.

Kế có quan Tham-mưu là Trần-đại-Thể bước ra tâu rằng:

— Tâu chúa-thượng theo lời quan hộ bộ trần tấu như vậy thì thần hạ e chưa đúng lý, vả chăng nước Caoman là một nước đả tùng phục dưới quyền bão hộ nước ta, thọ tước xưng thần, từ ấy đến nay. Nếu bây giờ ta thấy quân Xiêm chinh phạt Caoman, mà ta chẵng đem binh cứu viện, đặng bảo thủ lợi quyền, lại thinh không bỏ quyền bảo hộ ta đi, và xin nghị hòa cùng Xiêm quốc, thì tức nhiên hắn tự đắc kiêu căng, chê ta rằng khiếp sợ binh oai của hắn, ắc hắn khinh thị cả nước ta không có tướng dỏng binh cường, nếu hắn đem lòng khi thị ta như vậy, thì chẳng hề khi nào hắn chịu nghị hòa, mà không lập quyền bảo hộ của hắn nơi nước Caoman ấy đâu. Còn như hắn chịu nghị hòa, thế nào hắn cũng chiếm dành sự quyền lợi cho hắn, như vậy chẳng phãi là thất thể diện oai quyền của nước ta mà thôi, lại còn mất một nước Caoman, là nước đả thuộc về tay ta nắm chặc.

Chí như sự phòng bị quân giặc Tây-sơn thì binh ta cũng đũ, song hạ thần biết chắc quân Tây-sơn lúc bấy giờ, còn đương lo phòng binh cũa chúa Trịnh ngoài Bắc-hà, (Hà-nội) nên chưa dám đường đột cữ binh mà xong vào Giadinh đây đâu.

Vậy xin chúa-thượng phải sai một đạo binh tức tốc kéo lên Nam-vang, hiệp với Hồ-văn-Lân, đặng chống cự quân Xiêm, mà giử quyền bảo-hộ, nhứt diện truyền cho vua Caomman, và quan nhiếp-chánh là Chiêu-căng-Mu, bảo phải hội tập binh mả Cao-man, tấn lên Ô-đôngĐế-Thiên Đế-Thích, mà cự địch với binh Xiêm, nhứt diện lại truyền lịnh bố cáo cho tướng sỉ và cả nước Caoman biết rằng: Ta đả đem đại binh cứu viện nước nó, đặng cho binh sỉ dân Caoman ỷ có thế ta, thì tráng kiện tâm thần, và nống sức vững lòng mà cự chiến với giặc, còn binh ta thì cứ việc theo sau cầm quyền giám đốc cho chúng nó thì đủ. Như thế thì có sợ gì là không thắng đặng quân Xiêm, và sợ gì là chẳng đặng bảo tồn quyền lợi ta trong nước Chơn-Lạp, hà tất phải bỏ quyền bảo hộ mà cầu hòa cùng Xiêm, cho hắn khinh khi tự đắc.

Các quan nghe Trần-đại-Thể nghị luận mấy đều, thì cã thãy đều ý hiệp tâm đầu, và cho là hữu lý.

Nguyển vương nghe rồi liền phán rằng:

— Thế nào ta cũng phãi cứu viện Caoman cho gấp, đặng giữ gìn quyền bão hộ ta mới đặng, nếu chậm trể thì quân Xiêm kéo đến đoạt thủ thành đô Nam-vang (Phompenh) và bắt vua Caoman đặng rồi, thì khó bề tranh dành lại được, vả lại nước Caoman là một miếng ngon, ta đả nắm đặng vào tay, ngậm đặng vào miệng. lẽ nào ta lại điên gì nhã ra quăng lại cho ai sao?

Nói rồi, liền hạ lịnh cho quan chưỡng cơ Nguyển-hữu-Thoại đem một trăm chiến thuyền và ba ngàn binh mả, ngày đêm trực chỉ Nam-vang đặng hiệp binh cùng Hồ-văn-Lân là quan bão hộ ở nước Cao-man mà cự chiến với quân giặc.

Lúc bấy giờ hai tướng Xiêm là Chất-Tri với Sô-Xi, vẫn là hai anh em ruột cùng nhau, một người đả kéo binh vượt qua tới xứ Com bông sơ-năn, còn một người gần tới Ô-đông địa phận. Bổng nghe Nguyễn-hửu-Thoại đã tấn lên Nam-vang hiệp với đạo binh Hồ-văn-Lân và binh Caoman, cã thảy độ hơn năm ngàn binh bộ, hai ngàn binh thủy, rồi liệt hàng bố trận, giăng ngang trước vòng binh Xiêm, dài hơn ba chục dậm, và chắc như một cái trường-thành, mà che đậy cả và thành đô Caoman, như một cái màng từ Nam chí Bắc.

Hai tướng Xiêm liệu thế tấn tới không nỗi, liền truyền lịnh đồn binh lập trại tại địa phận Ô-đông, đặng chỉnh đốn quân lương, và dọ thám binh tình, rồi sẽ xáp chiến cùng ta một trận.

Bửa nọ, Sô-Xi đương hội tập các tướng, bàn nghị chiến sự, bổng có một tên gia thần ở bên thành Vọng-cát (Bangkok) nước Xiêm qua báo tin rằng:

— Bẩm chủ tướng, vua Xiêm là Trịnh-quốc-Anh nghe lời nịnh thần sàm tấu nói rằng: nhị vị chủ tướng không chịu tấn binh, nên vua bắt cã thãy gia quyến vợ con cũa hai ngài mà hạ ngục.

Sô-Xi nghe tin báo như vậy, thì sãng sốt tâm thần, dường nghe sét nổ bên tai, đất bằng dậy sóng, chẳng biết cớ gì vua Xiêm lại bắt hết vợ con mà hạ ngục, liền tuốt qua dinh Anh là Chất-Tri hội nghị cùng nhau mà rằng:

— Anh em chùng ta thuở nay vào sanh ra tử, trục bắc bôn nam, giáp chẵng hở lưng, đao không rời cánh, lập công nghiệp cho nhà Vua, chẵng biết bao nhiêu lao tâm hạn-mã, nay vua đã chẵng xét đến công lao cũa anh em chúng ta, lại nghe lời sàm tấu cũa lủ nịnh thần, bắt vợ con ta mà hạ ngục, thế thì dầu ta có hết lòng hết sức, xông tên đột pháo, giửa chốn chiến trường, cũng chẳng ai biết cho, thì nhọc công vô ích, chi bằng ta cầu hòa cùng annam, để làm ngoại-viện giúp mình, rồi chúng ta kéo binh về triều giết quách Vua điên ấy đi, mà trã thù rửa hận.

Chất-Tri nghe rồi cũng hiệp ý cùng em là Sô-Xi và đồ mưu toán kế, nhứt định cầu hòa với nước ta, sáng bữa sau Chất-Tri viết một văn thơ, rồi sai một tướng tâm phúc với hai tướng bộ hạ, đem qua dinh Nguyển-Hửu-Thoại, xin vào ra mắt.

Khi ba tướng Xiêm qua tới vòng binh annam ta, thấy binh trại liên lạc cùng nhau chẳng biết bao nhiêu, cờ xí quân ngũ nghiêm trang, xem rất lớp lang thứ tự.

Bổng có quân nhơn vào báo cùng Nuyển-Hửu-Thoại rằng:

— Có sứ Xiêm xin vào ra mắt.

Nguyển-Hửu-Thoại liền hội chư tướng lại, và truyền lịnh mở vòng binh ra, các vỏ tướng đều mang gươm mặc giáp, chỉnh chỉnh tề tề, kéo vào đứng trước viên môn, kế đó thấy phía tả kéo ra một đội quân kỳ-bài, phía hửu một đội quân pháo thủ, đứng dàng hai bên, một lát nghe nhạc linh đánh lên hai chập, kế thấy Nguyển Hửu-Thoại trong Hổ-trướng bước ra, mình mặc áo vỏ bào xanh, trước ngực có thêu một mặt sư-tử bằng kim tuyến, phía dưới thêu một lớp thủy ba, lưng đai một thanh bửu kiếm. Oai nghi lẩm liệt, khí vỏ đường hoàn.

Kế Hồ-văn-Lân ở bên tây dinh, cởi một con ngựa sắc hồng, mình mặc một bộ võ phục sắc xanh, có thêu kim ngân rực rở, hai bên có một đội mã-kỵ dàng hầu chạy theo; vó ngựa rần rần, ngọn gươm chỡm chởm, khi tới viên môn, Hồ-văn-Lân xuống ngựa bước vào nghị đường ngồi một bên Nguyển-hữu-Thoại, còn các tướng tá đứng hầu hai bên, xem rất nghiêm trang oai võ.

Nguyển-hữu-Thoại bèn truyền cho kỳ bài quan ra mời sứ Xiêm vào dinh yết kiến.

Khi sứ Xiêm vô tới viên môn, thấy hai bên quân sỉ đều tuốt gươm đứng cách nghiêm chỉnh, và ngó vào nghị đường thấy một đội pháo thủ bồng súng dàng hầu, và các tướng tá thảy đều mang đoãn đao, người người xem bộ oai nghi vỏ dõng:

Tướng Xiêm thấy vậy có ý khủng khiếp, rồi day lại nói nhỏ với hai tên phó sứ kia rằng:

— Lần nầy là lần thứ nhứt, ta mới thấy binh sỉ Annam, thật xem rất nghiêm trang oai võ hơn binh của nước ta nhiều lắm, nói rồi bước lên nghị đường yết kiến.

Nguyển hữu-Thoại đáp lể rồi mời ngồi nơi cẫm đôn, và dùng tiếng Xiêm mà hõi rằng:

— Quan sứ đến đây có việc chi, xin nói cho ta rõ.

Tướng sứ thấy Nguyển-hữu-Thoại khí võ Đường-Hoàng, phong tư tuấn dật, lại biết nói tiếng Xiêm, thì lấy làm lạ và đáp rằng:

— Bẫm tướng-công! chủ tướng tôi là Chất-Tri sai tôi đến kính mời tướng-công qua dinh hội nghị quốc sự.

Nguyển-hữu-Thoại nghe tướng sứ Xiêm nói vậy, thì ngạc nhiên và nghỉ rằng:

— Hai nước đương tranh chiến cùng nhau, mà cớ gì lại sai sứ mời qua hội nghị, rồi day lại hỏi tướng sứ rằng:

— Chủ tướng của ngươi là Chất-Tri với Sô-Xi phải chăng?

— Bẫm phải. Hai chủ tướng tôi có việc mật sự cẩn cấp, nên mời tướng-công qua dinh đặng hội nghị cầu hòa về việc chiến tranh.

Nguyển-hữu-Thoại lấy làm lạ, ngó sứ Xiêm châm chỉ và hỏi rằng:

— Chủ tướng của ngươi mời ta qua nghị hòa về việc chiến tranh, nhưng binh ta cùng binh Xiêm, chưa giao chiến lần nào, và chưa phân thắng bại; sao ngươi gọi rằng: chủ tướng ngươi xin hội nghị cầu hòa?

— Bẫm tướng-công, vì nhị vị chủ tướng tôi có việc đại cừu trong nước mới vừa xãy ra, bây giờ nhứt định thối binh về triều, nên xin mời tướng-công qua dinh, đặng hai nước giao hòa, và thối binh bải chiến, chớ không việc gì khác hết.

— Mà ngươi có văn thơ chi của chủ tướng đó không?

— Bẫm có; nói rồi liền lấy một phong văn thơ trao cho Nguyễn-hữu-Thoại,

Nguyễn-hữu-Thoại liền dở văn thơ ra xem thấy nói như vầy:

« Xiêm-la Chánh-Tổng-binh Chất-Tri và Phó-Tổng binh là Sô-Xi. Kính trình cùng Việt-Nam Tướng quân tưởng lảm.

« Anh em chúng tôi vâng lịnh vua xiêm, đem binh chinh phạt Cao-man, chẳng dè vua tôi là Trịnh-quốc-Anh nghe lời nịnh thần sàm tấu, chẳng xét công nghiệp cũa kẻ phụ quốc trung thành, vô cớ lại bắt vợ con gia quyến cũa chúng tôi mà hạ ngục. »

« Vì vậy chúng tôi đều ức uất bất bình, nhứt định bãi việc chiến tranh, quyết đem binh hồi triều đặng giết lủ nịnh thần mà rửa hận. Vậy xin Tướng-Quân ngự mã thân-lâm, đặng hai nước nghị hòa, kết nghỉa đồng-minh, và xin tướng quân bằng lòng giúp làm ngoại-viện.

« Kính lời thành thật, chẳng dám trả giá sai ngoa, nếu tướng-quân vì nghỉa quang lâm, thì anh em chúng tôi, sẽ tỏ hết sự tình, và thiết tiệc dàng hầu, mà hoan nghinh tôn giá. »

Xiêm La Tổng binh Chất-Tri và Sô-Xi
Kỉnh đốn.

Nguyển-Hửu-Thoại xem văn thơ rồi, ngó tướng sứ Xiêm và hỏi rằng:

— Binh cũa nhị vị Tổng-binh độ được bao nhiêu?

Tướng sứ Xiêm đáp rằng:

— Bẩm tướng công, hai đạo binh cũa nhị vị Tổng binh tôi, cã thãy là sáu ngàn, trong đó có năm chục tượng binh (voi) và năm trăm mả-kỵ.

— Còn binh số tại Xiêm, hiện thời bây giờ hết thảy chừng bao nhiêu? ngươi có biết chăng?

Bẩm tướng công, tôi chĩ biết số binh hiện tại thành đô Vọng-Các (Bangkok) bây giờ độ chừng một muôn, còn ngoài các trấn, thì tôi chưa kể tới nếu kể các trấn thì cũng được ngoài ba muôn là ít.

Nguyển-Hửu-Thoại nghe rồi, ngẩm nghĩ một chút và mỉm cười rồi nói rằng:

— Số binh trong nước ngươi, ta đả biết chắc rồi, Hiện thời bây giờ cả thảy chẳng đầy hai muôn, chĩ có một muôn sáu ngàn binh bộ, và hai ngàn binh thủy đó thôi, tổng cọng lại thì là một muôn tám ngàn binh cả thảy. Lúc bấy giờ chủ tướng ngươi đem hết sáu ngàn binh bộ qua đây và một ngàn binh vận-tải nửa, thì còn tại nước Xiêm chỉ có mười một ngàn mà thôi, chớ chưa tới số ba muôn như lời ngươi nói đó.

Tướng sứ Xiêm nghe Nguyển-hữu-Thoại nói vậy, thì cả kinh mà nghĩ thầm rằng: Làm sao Nguyễn-hửu-Thoại biết binh tình của nước ta rõ ràng như thế, rồi day lại bẫm rằng:

— Thật tướng-công biết rõ lắm, lúc thái bình thì trong nước tôi chỉ có hai muôn, nhưng lúc bây giờ đây thì mộ thêm, cũng được ba muôn như lời tôi nói vậy.

Nguyễn-hữu Thoại nói:

— Thôi, ngươi hảy trở về bẫm cùng nhị vị Tổng-binh hay rằng: Ngày mai ta sẽ qua dinh mà hội nghị quốc sự.

Tướng sứ Xiêm vâng lịnh lui ra, rồi trở về dinh Xiêm phục mạng.

Hồ-văn-Lân thấy Nguyển-hữu-Thoại hứa với sứ Xiêm ngày mai sẻ qua dinh Xiêm hội nghị, thì thất kinh mà nói với Nguyển-hữu-Thoại rằng:

Tướng quân chẳng nên quá tin Xiêm sứ, mà khinh suất ra đi, vì e chúng nó giả danh cầu hòa, rồi đồ mưu ám hại, ấy là một cái quyệt kế của chúng nó đó chăng?

Vậy xin tướng quân chớ đem cái thân ngàn vàng, vào nơi hổ-huyệt, rủi có đều chi nguy biến, thì tướng-quân biết liệu làm sao?

Nguyễn-hửu-Thoại cười và đáp rằng:

— Tướng-quân không nhớ thuỡ xưa Quan vân-Trường đơn đạo phó hội, Hán-bái-Công dự yến Hồng-môn, đó chẵng phãi là hổ-huyệt long-đàm hay sao? Nhưng hai ông ấy yên như bàn thạch, huống chi tôi đã hứa cùng Xiêm sứ, thì chẳng lẻ thất ngôn, mình là một đứng khí phách anh-hùng, thì sợ gì chổ lửa giặc đao binh, mà không ra thân mạo hiễm, song xem lời văn thơ của hắn, thì tôi đã rõ biết chơn tình, vì vua Xiêm là Trịnh-quốc-Anh, bắt gia-quyến hắn mà hạ ngục. Nên hắn đem lòng thù hận, quyết toan mưu trã oán rửa hờn, song sợ sức yếu thế cô, muốn cầu hòa cùng ta, đặng mượn thế ta để làm ngoại-viện, chớ chẳng phải giả trá chi đâu, vậy ta củng nên thừa dịp ấy mà giao hòa cùng tướng Xiêm, đặng ngày sau có việc gì, viện cầu cho dễ, ấy cũng là một sự may mắn cho nước ta, đã chẵng hao binh tỗn tướng, mà củng không thất chút lợi quyền nào trong việc bảo hộ nước Caoman, bây giờ tuy thấy đó là chỗ ổ giặc hang hùm, nhưng ta tới đó yên như thái-san bình-địa, không sao mà tướng-quân phòng ngại.

Hồ-văn-Lân thấy Nguyển-hữu-Thoại quã quyết ra đi, tuy chẳng nói ra, mà trong lòng vẫn còn bồi hồi nghi ngại.

Sáng bửa sau Nguyển-hữu-Thoại bảo mười tên quân nhơn tùy tùng cùng người, rồi lên ngựa chẩm hẫm ra đi, không chút chi nghi ngờ lo sợ.

Em ruột Nguyển-hữu-Thoại là Nguyển-Hựu, thấy anh đi đơn thân độc mã, chẳng có tướng tá hộ-tùng, đem theo chĩ có mười tên quân nhơn, nếu gặp sự hiểm nguy, thì lấy ai đở gạt, liền đem theo hai đội mã kỵ và một đội pháo thủ lục thục theo sau, rồi đóng binh tại mé rừng, cách dinh quân Xiêm độ chừng năm dậm, để phòng có việc chi tiếp ứng cho lẹ.

Khi Nguyễn-hữu-Thoại đi với mười tên quân nhơn qua tới dinh Xiêm, thấy tướng Xiêm là Chất-Tri, với Sô-Xi cùng các tướng tá đã dàng hầu trước dinh, quân Xiêm thấy Nguyển-hữu-Thoại qua chỉ có mười tên quân nhơn tùy tùng, chớ chẵng có binh gia tướng tá chi hết, thì khen cho Nguyển-hữu-Thoại là một người gan đởm phi thường, rồi kéo ra tiếp rước cách lể nghi kính trọng.

Nguyển-hửu-Thoại liền xuống ngựa thẵng vào viên môn, thì hai em Chất-Tri đã vội vả bước ra chào mừng nghinh tiếp, rồi dắc vào đại dinh, bày tiệc thiết đãi rất ân cần tử tế.

Kế Chất-Tri lấy lời hòa nhả, nói với Nguyển-hửu-Thoại rằng:

— Thưa tướng-quân, thuở nay quí quốc với tệ ban, vẩn giử một cuộc hòa bình giao hão, chẵng phải hiểm khích chi nhau, song lúc bấy giờ vua tôi là Trịnh-quốc-Anh, sanh lòng tàng ngược, mà gây cuộc chiến tranh, làm cho quí quốc nhọc lòng dấy động cang qua, đem binh cứu viện Chơn-Lạp. Ngày nay tướng-quân đem lòng cố cập, chẵng chút hiềm nghi, và giá lâm đến đây, làm cho anh em chúng tôi được tiếp kiến tôn nhan, thì chúng tôi chẵng xiết vui lòng cãm phục.

Số là vua Trịnh-quốc-Anh chẵng biết tín nhặm trung thần, lại nghe lời sàm tấu, bắt cả gia quyến chúng tôi, mà nhốt vào hắc ngục, chẵng biết chết sống ngày nào, nếu nay mai tiếng nịnh lời dèm tâu vô, ắc là chúng tôi cũng chẵng khõi toàn gia tru lục.

Vì vậy nên anh em chúng tôi quyết đem binh về triều giết quách vua tàn bạo ấy đi, đặng trả oán rửa hờn, và cầm quyền chánh trị trong nước, nhưng chúng tôi trước khi về triều, xin kết nghĩa đồng minh cùng tướng-quân, và xin tướng-quân giúp làm ngoại viện, nếu việc của chúng tôi đựoc thành, thì từ đây về sau, hai nước giao hòa, và giúp đở nhau trong cơn hửu sự, như vậy chẳng biết tướng quân bằng lòng cùng chăng? Như tướng quân bằng lòng theo lời tôi xin, thì nội ba ngày đây, chúng tôi sẽ rút binh về nước.

Nguyễn-Hữu-Thoại nghe nói thì vui sắc mặt và trã lời rằng: mấy điều quan Tổng-binh nói đó, tôi sẻ sẳng lòng, vậy nếu quan Tổng-binh muốn hai nước giao hòa, thì xin tỏ một lời tín thệ giửa đây, đặng hai ta kết nghĩa đồng-minh, mà cứu giúp nhau trong cơn nguy cấp, chừng nào đại sự hoàng thành, nghĩa là khi Tổng-binh được lên ngôi quốc-vương, cầm quyền chánh trị, thì chừng ấy hai nước sẻ lập tờ hòa ước cùng nhau cho rỏ ràng điều lệ.

Vả lại vua Trịnh-quốc-Anh nay đả phạm hai điều tội ác: một là nước Xiêm cùng nước Cao-man, thuở nay vẩn là hữu-ban lân-quốc, nay vua Trịnh-quấc-Anh vô cớ mà đem binh chinh phạt Cao-man làm cho mất cuộc hòa bình, sanh điều chiến họa; hai là vua Trịnh-quấc-Anh chẳng biết trọng dụng công thần. Nghe lời sàm tấu, bắt vợ con quí quyến mà cầm tù, làm thiệt hại cho người trung lương vô tội, ấy là một vua hôn quân bạo-ngược, chẳng biết trọng sĩ thân hiền, dẩu quan Tổng-binh có hết sức hết lòng, củng chẳng ai kể đến, nên lời xưa có nói rằng, hể vua xem tôi như loài thảo giới, thì tôi xem vua như kẻ nghịch thù.

Nay quới quan muốn đem binh về triều mà vấn tội vua Trịnh-quốc-Anh là vua tàn nhẩn điên cuồng, thì tôi một lòng cầu chúc cho quới quan mau được rửa oán trã hờn và xin quới quan chớ quên ngày nay là ngày hai ta đã giao lời thệ ước.

Chất-Tri nghe bấy nhiêu lời rồi, liền nắm tay Nguyển-hửu-Thoại dắc ra trước sân, và lấy một mũi tên chĩ trời gạch đất mà thệ nguyện rằng:

— Tôi là Chất-Tri nếu quên lời giao ước, bội nghĩa đồng minh, thì tôi sẽ như mũi tên nầy, và phãi bị luật trời hành phạt, nói rồi liền bẽ mũi tên gãy ngang, đặng chứng lời thệ nguyện.

Nguyển-hửu-Thoại thấy Chất-Tri bẽ tên thệ nguyện thì biết người đã thiệt tình, bèn lấy một cây cờ và một thanh bửu kiếm, trao cho Chất-Tri để làm kỷ-niệm, rồi cáo từ trở về, còn Chất-Tri với Sô-Xi và ba mươi võ tướng đều kéo theo đưa ra khỏi dinh, rồi mới phân tay tự biệt, liền truyền cho tướng sỉ tam quân nhổ trại kéo binh về nước.

Khi Nguyển-hựu-Thoại ra khõi dinh Xiêm ước chừng 5 dậm, bổng thấy một đạo quân mã đóng nơi mé rừng, kế thấy em là Nguyển-Hựu cởi ngựa chạy tới tiếp rước, rồi hai anh em mừng rở kéo nhau về dinh một lược.

Lúc bấy giờ Nguyển-hửu-Thoại còn đóng binh ở tại Caoman, đặng thăm nghe binh Xiêm động tịnh thế nào, rồi sau sẽ rút binh về Saigon, và đem hết sự tình hòa ước với Xiêm mà tâu cùng Nguyển-vương tường tất.


(Xin coi tiếp cuốn thứ tư)

   




Chú thích

  1. Theo sử thiệt lục chánh Biên thì kêu vua Xiêm là Trịnh-quốc-Anh, còn sử Histoire d'annam cua Charles maybon thì kêu vua Xiêm là Phya-Tak. Hai tên khác nhau, không biết tên nào là trúng.