Hán văn độc tu 1932/Bài học thứ sáu
I. Học những tiếng về verbe
[sửa]Chữ Hán | Đọc | Nghĩa |
---|---|---|
出 | Xuất | Ra |
入 | Nhập | Vào |
坐 | Tọa | Ngồi |
立 | Lập | Đứng |
臥 | Ngọa | Nằm |
起 | Khỉ (khởi) | Dậy |
步 | Bộ | Bước |
行 | Hành | Đi |
走 | Tẩu | Chạy |
躍 | Dược | Nhảy |
呼 | Hô | Thở ra; kêu |
吸 | Hấp | Hút vào |
吹 | Xuy | Thổi |
吞 | Thôn | Nuốt |
愛 | Ái | Yêu |
恤 | Tuất | Thương |
思 | Ty (tư) | Nhớ, lo, nghĩ |
念 | Niệm | Tưởng, nhớ |
記 | Ký | Ghi cho nhớ |
忘 | Vương (vong) | Quên |
見 | Kiến | Thấy |
聞 | Văn | Nghe |
沐 | Mộc | Gội (đầu) |
浴 | Dục | Tắm (cả mình) |
抱 | Bảo | Ôm, bồng |
持 | Trì | Cầm |
開 | Khai | Mở |
閉 | Bế | Đóng |
分 | Phân | Chia |
割 | Cát | Cắt |
II. Cắt nghĩa thêm
[sửa]Hán văn, mỗi chữ không nhứt định là thuộc về mối nào: một chữ mà khi thì là nom, khi thì là adjectif, khi thì là verbe... tùy mình dùng nó làm gì, thì nó làm nấy. Tuy vậy, mỗi chữ đều theo nguyên nghĩa của nó mà thuộc về một mối nào đó, ấy là mối chính của nó. Như những chữ học hôm nay, theo nguyên nghĩa nó ắt là về mối verbe. Ấy cũng như những chữ nom hôm trước theo nguyên nghĩa là nom; những chữ adjectif theo nguyên nghĩa là adjectif.
Lấy ví dụ và cũng học thêm một chữ nữa: chữ 生 (sanh). 生 là sanh ra, đẻ ra, ấy là verbe, mối chính của nó. Nhưng khi nói 一 (nhứt) 生 , nghĩa là một sự sống, tức là một đời người, thì lại thành ra nom. Nó đi với chữ 動 (động) nói 生 動, nghĩa là vif hay vivant, thì là adjectif.
Có khi có chữ biến ra adverbe nữa, nhưng phần nhiều là chữ nào cũng có thể biến hóa trong ba mối đó: nom, adjectif và verbe.
(Điều nầy là điều rất hệ trọng trong Hán văn, cần phải biết sớm; nhưng đợi đến hôm nay học đến verbe mới nói ra được).
步, theo nghĩa về nom thì hai lần cất chưn là một bước (一 步); theo nghĩa về verbe thì đi thủng thẳng từng bước là bộ.
行 cũng có nghĩa như bộ, như marcher, mà cũng có nghĩa như aller, partir. Cũng là đi mà khác nhau với chữ 去 (khứ). Khi nào nói 去 là có ý như tiếng Pháp nói quitter hay là s'en aller.
愛 là yêu, như aimer, khác với 恤 hay 憐 (lân), 憫 (mẫn) đều nghĩa là thương, như avoir pitié. Sự yêu là cốt ở tánh trời, phát ra từ trong lòng, ấy là ái; còn sự thương là bởi ngó thấy cái thảm trạng trước mắt mà mủi lòng, ấy là lân, mẫn, tuất. Chữ Hán chữ Pháp đã phân biệt như vậy thì tiếng ta, yêu và thương cũng phải phân biệt.
III. Văn pháp Verbe intransitif
[sửa]Chúng ta học trong tiếng Pháp, đã biết verbe transitif và intransitif là gì rồi, thì trong chữ Hán, verbe cũng có hai thứ ấy.
Hễ verbe transitif thì dính liền với complément direct, như nói 子 愛 父 (con yêu cha), 我 開 門 (tôi mở cửa): chữ 愛 dính liền chữ 父, chữ 開 dính liền chữ 門, không có chữ gì xen vào giữa nó hết.
Còn verbe intransitif thì cần có những chữ dưới nầy để làm dính complément indirect với verbe:
1. chữ 自 (tự là từ) để chỉ nghĩa từ đâu. Nó giống với chữ de trong tiếng Pháp. Vậy như nói: 出 自 北 (bắc là phương bắc) 門 = Ra từ cửa bắc.
2. chữ 於 (ư là nơi), để chỉ nghĩa ở đâu, đến đâu. Nó giống với chữ à. Vậy như nói: 入 於 幽 (u là tối) 谷 (cốc là hang) = vào nơi hang tối.
Chữ 於 ấy hoặc nói là 于 (vu) cũng được, hai chữ cùng một nghĩa.
3. chữ 爲 (vị là vì, là cho), để chỉ nghĩa vì ai, cho ai. Nó giống với chữ pour. Vậy như nói: 父 爲 子 隱 (ẩn là giấu) = cha vì con giấu, tức là cha giấu cho con.
4. chữ 由 (do là bởi), để chỉ nghĩa bởi đâu, bởi ai. Nó giống với chữ par. Vậy như nói: 誰 能 (năng là hay, là có thể) 出 不 (bất là chẳng) 由 戶 = ai có thể đi ra chẳng bởi cửa? Lại như nói: 爲 (vi là làm) 仁 (nhân là nhân từ) 由 己 = Làm điều nhân bởi mình.
5. chữ 以 (dĩ, là lấy, là dùng, là bằng) để chỉ nghĩa lấy gì, bằng gì. Nó giống với chữ avec hay là chữ en. Vậy như nói: 投 (đầu là gieo, là ném; đây là tặng cho) 我 之 桃 (đào là trái đào); 報 (báo là trả) 之 以 李 (lý là trái lý) = tặng ta bằng trái đào, ta trả lại bằng trái lý; hay là lấy trái đào tặng ta, ta lấy trái lý trả lại.
Hãy nhớ mấy điều ngoại lệ (exception) dưới nầy:
1. Trong năm chữ đó có hai chữ 自 và 於, nhiều khi có thể bỏ đi được. Như nói 出 家 chỉ những người ra khỏi nhà mà đi tu, song không nói 自; nói 入 山, chỉ những người vào nơi núi mà ở ẩn, song không nói 於.
2. Chữ 於 có khi dùng để thay cho chữ 自, đáng lẽ nói 出 自 mà lại nói 出 於. Như trong sách Trang Tử có câu rằng: 莊 (Trang là kính, đây là nom propre, họ) 子 出 於 山 = Trang tử ra khỏi núi.
Làm thế nào biết được một verbe nào đó là intransitif, để đặt những chữ préposition theo sau nó? Cái đó thì không có luật nào hết, chỉ nhờ lâu thành quen. Có một điều nên để ý, là nên đem chữ Hán gióng với tiếng ta mà tìm thử nó là transitif hay intransitif, chớ không nên đem mà gióng với tiếng Pháp, vì trong sự đó chữ Hán giống với tiếng ta hơn là tiếng Pháp vậy.
Như ta nói nhớ nhà, verbe nhớ là transitif, thì chữ Hán cũng nói 思 家, verbe 思 là transitif; vậy không nên gióng với tiếng Pháp nói penser à mà bắt chước nói theo thành ra 思 於 家 thì trật.
IV. Những thành ngữ dùng vào Quốc văn
[sửa]坐 臥 不 安 = Tọa ngoạ bất an: Ngồi nằm chẳng yên. Nói về có sự gì lo lắng lắm.
出 入 自 由 = Xuất nhập tự do: Ra vào tự do. Chỗ nào nhứt là nơi cửa nào tha hồ cho công chúng ra vào, người ta hay yết thị bằng bốn chữ ấy. (Tục Nam kỳ có tiếng "thả cửa", cũng bởi ý đó).
出 入 不 禁 = Xuất nhập bất cấm: Cũng như xuất nhập tự do. Bất cấm nghĩa là chẳng cấm ngăn chi hết.
進 步 = Tấn (tiến) bộ: Bước tới, đi tới. Đối với 退 步 = thối (thoái) bộ: bước thụt lùi.
起 點 = Khỉ (khởi) điểm: Điểm là cái chấm (point). Khởi điểm là cái chấm bắt đầu. Ví với làm một việc gì mà mới gây đầu ra. Cái danh từ nầy gốc ở kỷ hà học (Géomètrie): Theo kỷ hà học, các đường (lignes) đều bắt đầu từ cái chấm (point), cho nên nói như vậy.
分 門 割 戶 = Phân môn cát hộ: Chia cửa rẽ ngõ. Nói về một đảng nào về sau mỗi người chia rẽ ra.
別 立 門 戶 = Biệt lập môn hộ: Riêng lập cửa ngõ cho mình, không chịu theo ai. (Chữ 別 nghĩa là chia, rẽ).
V. Tập đặt
[sửa]Hãy dịch những đề nầy ra chữ Hán mà khoan coi những câu chữ Hán đã dịch ra ở dưới; khi dịch rồi, hãy coi đó mà biết trúng hay trật.
1. Mẹ bồng con. - 2. Mẹ tôi bồng con nó. - 3. Cha tôi đi ra cửa. - 4. Vợ nó ngồi nơi đất. - 5. Con trâu tắm nơi sông. - 6. Xe đi nơi (trên) cạn, thuyền đi nơi (dưới) nước. - 7. Gió thổi áo của tôi. - 8. Vợ nhớ chồng của mình. - 9. Tôi thấy cây nơi núi. - 10. Tôi nghe điều đó nơi cha tôi.
Dịch như vầy là đúng:
1. 母 抱 兒 .- 2. 吾 母 抱 其 兒 .- 3. 我 父 出 門 .- 4. 其 妻 坐 於 地 .- 5. 水 牛 浴 於 江 .- 6. 車 行 於 陸, 舟 行 於 水 .- 7. 風 吹 我 衣 .- 8. 妻 思 其 夫 .- 9. 我 見 木 於 山 .- 10. 我 聞 之 於 吾 父 .
Đáp những lời hỏi về khoa Hán văn độc tu
[sửa]Từ hôm mở khoa “Hán văn độc tu” đến nay, chúng tôi có tiếp được nhiều thơ từ nói về việc ấy. Những thơ khen tặng thì chúng tôi xin có một tiếng cảm ơn chung, còn những thơ có hỏi han thêm điều gì thì chúng tôi cũng xin trả lời chung trên báo và chia làm nhiều lần, mỗi lần nói vài ba khoản. Vậy hôm nay trả lời lần thứ nhứt:
1. Về sự cắt nghĩa từng chữ cho thiệt rõ, như chữ 門 phải cắt nghĩa là cái cửa có hai cánh như hình của chữ, chữ 江 chữ 河 phải cắt nghĩa gốc nó làm sao (tức là theo phép lục thơ mà cắt nghĩa) có ít nhiều độc giả muốn chúng tôi làm như thế.
Nhưng điều đó trước kia chúng tôi có nói trong một bài luận về cách học Hán văn rồi. Nếu mà học cách ấy thì thành ra học étymologie, nghĩa là học đến gốc của mỗi chữ, ích thì vẫn có ích thật, nhưng mất công nhiều lắm, không bao giờ cho biết được nhiều chữ.
Có một cớ rất khó cho sự học étymologie của Hán văn, là vì chữ Hán đời xưa với bây giờ viết khác nhau xa lắm, nếu mỗi chữ phải cắt nghĩa tận gốc thì mỗi chữ phải tìm đến nguyên hình hồi thượng cổ viết thế nào kia. Sự ấy không phải là sự tuyệt đối không có thể làm được, nhưng phải mất công rất nhiều. Thật tình ra thì cũng có chữ không tìm được nguyên hình nữa.
Bởi vậy, bây giờ chúng tôi chỉ cốt cho độc giả biết chữ 門 là khác với chữ 戶, chữ 江 chữ 河 là khác với chữ 川, như thế là đủ; còn nếu bảo cắt nghĩa nhiều hơn nữa thì càng thêm rộn.
Nhưng lại phải biết, sự học phải theo đẳng cấp. Sự học étymologie không phải là dễ, nên chúng tôi muốn để lại về sau; sau khi biết được đôi ba ngàn chữ rồi, lấy mà chứng nghiệm cùng nhau, khi bấy giờ muốn biết đến gốc nó có dễ hơn.
2. Có người bảo nên chỉ ra những chữ làm đầu bộ cho thật tường tất, hay là phải sắp những chữ làm đầu bộ lại một nơi, như thế thì tiện hơn.
Chúng tôi nghĩ rằng sự ấy không cần, cho nên chúng tôi không làm. Thuở xưa thầy dạy chữ Hán, không hề có ông nào bày ra những tự điển cho học trò, cũng chẳng hề có ai chỉ chữ làm đầu bộ. Chúng tôi cho rằng dạy như vậy sơ lược quá, nên mới chỉ chừng cho học trò biết.
Sao lại chỉ chừng chừng mà không chỉ thật rõ? Vì rằng không ích gì lắm. Duy những chữ biến hình là cần phải chỉ, còn những chữ kia đến khi lật tự điển ra sẽ thấy, có khó gì đâu? Có 214 chữ đầu bộ thì sách tự điển nào bắt đầu cũng có nêu lên hết, để bữa sau, khi tra tự điển được, mở ra thì thấy.