Hán văn độc tu 1932/Bài học thứ năm
I. Học những tiếng về pronom (Adjectifs qualificatifs)
[sửa]Chữ Hán | Đọc | Nghĩa |
---|---|---|
我 | Ngã | Ba chữ nầy đều nghĩa ta hay tôi, về ngôi thứ nhứt, số một. |
吾 | Ngô | |
予 , 余 | Dư | |
爾 | Nhĩ | Hai chữ nầy đều nghĩa là mầy, về ngôi thứ hai, số một. |
汝 | Nhữ | |
彼 | Bỉ | Nó, về ngôi thứ ba, số một. |
我 等 | Ngã đẳng | Bốn chữ nầy đều nghĩa là bọn ta, chúng ta, hay bọn tôi, chúng tôi, về ngôi thứ nhứt, số nhiều |
吾 輩 | Ngô bối | |
吾 儕 | Ngô sài | |
吾 曹 | Ngô tào | |
爾 曹 | Nhĩ tào | Hai chữ nầy đều nghĩa là bọn mầy hay chúng bay, về ngôi thứ hai, số nhiều. |
汝 等 | Nhữ đẳng | |
彼 輩 | Bỉ bối | Hai chữ nầy đều nghĩa là bọn nó hay chúng nó, về ngôi thứ ba số nhiều. |
彼 等 | Bỉ đẳng | |
之 | Chi | Đó, nó |
其 | Kỳ | Của nó |
者 | Giã | Kẻ (người) |
所 | Sở | Cái điều |
己 | Kỷ | Mình |
誰 | Thùy | Ai? |
孰 | Thục | Ai? |
何 | Hà | Cái gì? |
莫 | Mạc | Chẳng có ai |
II. Cắt nghĩa thêm
[sửa]Về pronom personnel, chữ Hán cũng lôi thôi như tiếng Việt Nam ta, nghĩa là những tiếng dùng mà xưng mình hay xưng người không có nhứt luật như tiếng Pháp. Nói rõ ra: tiếng Pháp xưng mình là moi, je, nous, xưng người là tu, vous, xưng sau lưng người là il, elle, ils, elles, bất kỳ đối với ai cũng dùng được hết; nhưng tiếng Nam, nói với ai và nói về ai, cũng phải tùy địa vị họ và địa vị mình mà xưng hô, không nói càn ngang được, thì chữ Hán cũng vậy.
Tiện đây ta nên biết sự ấy cho càng rõ ràng hơn thì có ích hơn.
Hiện nay người Tàu chia chữ họ ra làm hai thứ: 1. Văn ngôn (文 言), viết theo lối nói đời xưa chớ không theo lối nói đương thời; 2. Bạch thoại (白 話), viết theo lối nói đương thời; nói thế nào, viết thế ấy.
Theo Bạch thoại thì pronom personnel được nhứt luật. Nghĩa là về ngôi thứ nhứt: số một nói ngã, số nhiều nói ngã môn (們); ngôi thứ hai: số một nói nễ (你), số nhiều nói nễ môn; ngôi thứ ba: số một nói tha (他), số nhiều nói tha môn. Nói rằng "được nhứt luật", bởi vì đối với ai mà xưng mình và xưng người cũng cứ như vậy chớ không tùy địa vị mà thay đổi. Vậy thì pronom personnel của Bạch thoại Tàu cũng được tiện lợi như tiếng Pháp.
Nhưng Văn ngôn thì lại không như thế. Pronom personnel của văn ngôn thì lại tùy địa vị mà xưng hô như tiếng Nam ta: đáng ông kêu ông, đáng bà kêu bà, đáng quan lớn kêu quan lớn... lại còn xưng mình, khi tao, khi tôi, khi con... không đồng nhau.
Chúng ta học đây, không phải học Bạch thoại mà là học Văn ngôn. Đã vậy thì sự phải theo cách dùng pronom personnel của văn ngôn là sự tự nhiên lắm.
Theo Văn ngôn, khi đối với cha mẹ, con phải xưng cha mẹ là 大 人, xưng mình là 兒 (nhi, nghĩa là con); bạn hữu đối với nhau, thường xưng bạn là 兄, xưng mình là 弟. Như vậy thành ra những chữ 吾, 我, 爾, 汝, tuy liệt vào pronom personnel đó mà phải đợi lúc đáng dùng mới dùng, chớ không dùng luôn luôn được.
Bởi vậy, những chữ pronom học hôm nay là học lấy đại lược; chớ không phải rằng bao nhiêu tiếng xưng hô đã gồm hết vào trong đó đâu.
Thật ra thì cũng duy có những chữ ta học hôm nay đó mới gọi được là pronom personnel; chớ còn những chữ như 大 人, 兒, 兄, 弟 đều là nom cả mà mượn dùng như pronom, cho nên không kể vào đây được; đợi sau sẽ học tới.
Nãy giờ nói đó là theo Văn ngôn từ ngang đời Khổng Tử về sau; chớ truy nguyên ra, lên đời xưa nữa, trước Khổng Tử, thì pronom personnel lại vốn là nhứt luật. Coi như trong kinh Thơ, tôi xưng mình trước mặt vua cũng xưng là 予, và xưng vua cũng bằng 爾 , 汝 thì đủ biết. Lại hồi đó cũng không phân số một và số nhiều nữa: lắm khi dùng chữ 爾 mà chỉ về đông người.
予 và 余 đồng âm đồng nghĩa, hai chữ như một.
等, 輩, 儕, 曹 cũng đều là tiếng nom, nghĩa là bọn; đây đem để dưới pronom làm ra số nhiều.
Sáu chữ dùng chỉ ba ngôi số một đó, chữ nào đem để trên chữ 等 chữ 輩 làm thành số nhiều đều được cả. Duy chữ 儕 chữ 曹 nên dùng có hạn, như mấy chữ có trên đó mà thôi, không nên dùng lạm; nếu ai nói 君 曹 hay 彼 儕 là trật, vì theo thói quen, không hề nói vậy bao giờ.
Chữ 之 hôm nay là pronom, cùng một chữ mà khác nghĩa với chữ 之 như chữ de đã học hôm trước. Dưới đây sẽ cắt nghĩa nó luôn với chữ 其.
Còn từ chữ 者 sắp xuống, hôm nay chỉ nên biết nó là pronom thế thôi; đợi sau phải học riêng từng chữ mới rõ nghĩa nó và biết cách dùng được.
III. Văn pháp
[sửa]Những pronom personnel nầy, đời xưa có phân biệt, mà từ lâu nay người ta đã làm lộn xộn hết phần nhiều, không phân biệt nữa.
Như về ngôi thứ nhứt: theo sách xưa thì chữ 吾 thường thường làm sujet trong câu, đứng trước verbe, và cũng làm như adjectif possessif, như những chữ mon, ma, mes, trong tiếng Pháp; còn chữ 我 làm complément, đi sau verbe. Về ngôi thứ hai: chữ 汝 làm sujet trong câu, đứng trước verbe, còn chữ 爾 làm complément, đi sau verbe, và cũng làm như adjectif possessif, như những chữ ton, ta, tes, trong tiếng Pháp. Ấy vậy mà đã lâu rồi, người ta dùng tràn đìa đi, không còn giữ luật ấy nữa.
(Chỗ nầy đáng lẽ dẫn những câu sách xưa làm chứng, song sợ làm khó cho người học, thôi thì cứ biết vậy là đủ, đợi sau sẽ hay).
Vì cớ đã làm lộn xộn đó cho nên năm chữ (sáu mà kể năm vì hai chữ dư kể một) ở ngôi thứ nhứt và ngôi thứ hai, chữ nào công dụng (fonction) của nó cũng như nhau, nghĩa là chữ nào cũng làm sujet, làm complément, lại làm như adjectif possessif được hết (bên số nhiều cũng vậy).
Duy có ngôi thứ ba, vốn có ba chữ 彼, 之, 其 công dụng khác nhau, đời xưa phân biệt cho tới đời nay, không hề lộn xộn. (Vì vậy mà ở đây để chữ 之 chữ 其 riêng ra ở dưới).
Chữ 彼 làm sujet và làm complément như năm chữ trên kia được, nhưng không hề làm như adjectif possessif bao giờ.
Chữ 之 luôn luôn thế cho một nom nào ở trước, như le, la, les (pronom) trong tiếng Pháp, nhưng không hề làm sujet bao giờ.
Chữ 其, theo tiếng Pháp thì nó chính là adjectif possessif, nhưng ở đây cũng sắp vào pronom cho tiện hơn.
Số là Hán văn không có adjectif possessif, khi nào muốn chỉ một vật nào thuộc về của ai thì để một pronom personnel ở trên, để nom chỉ vật ấy ở dưới, rồi ở giữa nó để một chữ 之. (chữ 之 nầy tức chữ 之 như chữ de, đã học rồi).
Như "vợ của tôi" thì nói 余 之 妻; "cái áo của mầy" thì nói 爾 之 衣; "tổ tiên của chúng ta" thì nói 吾 儕 之 祖 先 (tổ tiên).
Tuy vậy, cũng như luật "nom liên thuộc" đã học tuần trước, luôn luôn người ta bỏ chữ 之 ấy đi. Trừ ra khi nào có sự cần thì mới để lại. (Tại sao? Sau sẽ cắt nghĩa).
Vậy hãy nhớ: "Vợ của tôi" thì nói 余 妻; "áo của mầy" thì nói 爾 衣 v.v...
Hai ngôi thứ nhứt và thứ nhì thì vậy; nhưng đến ngôi thứ ba lại khác. Người ta không nói 彼 妻 (vợ của nó), 彼 衣 (áo của nó), 彼 等 之 祖 先 (tổ tiên của chúng nó) được, mà phải nói: 其 妻, 其 衣, 其 祖 先 .
Vậy thì chữ 其 là chữ để thay cho 彼 之 .... Khi nào muốn nói 我 之 ...... thì bỏ 之 mà nói nội 我 .... ; khi nào muốn nói 爾 之 .... thì bỏ 之 mà nói nội 爾 ... . Nhưng khi nào muốn nói 彼 之 .... thì chẳng những bỏ 之 mà cũng bỏ luôn cả 彼 nữa, nói 其 ........
IV. Tập đặt
[sửa]Từ hôm bắt đầu học đến nay, kể ra đã biết sơ được ba mối tiếng rồi: nom, adjectif và pronom; còn chữ thì đã thuộc được dưới hai trăm chữ. Nội chừng nấy đó đã đủ ráp lại đặt câu rất vắn được rồi.
Ta nên biết trước điều nầy. Theo tiếng Pháp, những câu vắn vắn đặt với verbe Avoir hay verbe Être thì thế nào cũng phải có verbe mới được; không, thì không thành câu. Nhưng chữ Hán khác hẳn. Những câu đặt với hai verbe ấy thì không cần có verbe cũng thành câu. Bởi vậy chúng ta hôm nay chưa học đến verbe mà cũng có thể đặt câu được. Nay nói trước về verbe Être. Như muốn nói: "Cái áo của tao dài, cái áo của mầy vắn", thì tiếng Pháp thế nào cũng phải dùng verbe Être, nhưng chữ Hán không cần, chỉ nói: 我 之 衣 長, 爾 之 衣 短, là đủ, (Bắt đầu tập đặt, ta khoan bỏ chữ 之 đã, nên để nó cho nghĩa được rõ hơn).
Vậy hãy theo những đề sẵn dưới nầy mà dịch ra chữ Hán. Những đề dưới nầy đều là câu đáng có verbe Être mà bỏ đi.
1. Vợ của tôi đẹp; vợ của bạn tôi xấu. - 2. Nước sông Hương cạn; nước sông Nhĩ Hà sâu. - 3. Núi cao mà gò thấp. - 4. Nhà của cha tôi cao; nhà của anh tôi thấp. - 5. Con dao của nó bén; con dao của em nó cùn.
Dịch xong rồi, coi lại, nếu giống như dưới nầy, ấy là dịch đúng.
1. 我 之 妻 美; 我 友 之 妻 醜. 2. 香 江 之 水 淺; 珥 河 之 水 深. 3. 高 山 而 阜 低. 4. 我 父 之 屋 高; 我 兄 之 屋 低. 5. 其 刀 利, 其 弟 之 刀 鈍.
Chữ 而 (nhi) dùng để nối hai danh từ cho liền nhau, cũng như chữ et trong tiếng Pháp; có khi nó cũng có nghĩa là nhưng mà, có ý trái với trên như chữ mais.