Bước tới nội dung

Hiếu Kinh diễn nghĩa/Chương 1

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Hiếu kinh diễn nghĩa  (1893)  của không rõ, do Trương Minh Ký dịch
Khai tông minh nghĩa

開宗明義章·第一

仲尼居,曾子侍。子曰先王有至德要道,以順天下,民用和 睦,上下無怨,女知之乎曾子避席,曰參不敏,何足以知之 子曰夫孝,德之本也,敎之所由生也。復坐,吾語女身體髮 膚,受之父母,不敢毀傷,孝之始也立身行道,揚名於後世, 以顯父母,孝之終也夫孝,始於事親,中於事君,終於立身 大雅云無念爾祖,聿修厥德

Khai tông minh nghĩa chương đệ nhứt.[1]

1. Trọng ni cư, Tăng tử thị. — 2. Tử viết: Tiên vương hữu chí đức yếu đạo, dĩ thuận thiên hạ, dân dụng hòa mục, thượng hạ vô oán. Nhữ tri chi hồ? — 3. Tăng tử tị tịch viết: Sâm bất mẩn; hà túc dĩ tri chi? — 4. Tử viết: Phù hiếu, đức chi bổn dã, giáo chi sở do sanh dã. Phục tọa; ngô ngứ nhử. Thân, thể, phát, phu, thọ chi phụ mẫu, bất cảm hủy thương, hiếu chi thỉ dã. Lập thân, hành đạo, dương danh ư hậu thế, dĩ hiển phụ mẩu; hiếu chi chung dã. Phù hiếu, thỉ ư sự thân; trung ư sự quân; chung ư lập thân. — 5. Đại nhã vân: Vô niệm nhĩ tổ, duật tu khuyết đức.[2]

Bài bày tích sách, tỏ nghĩa hiếu, thứ nhứt.

1. (Đức) Trọng ni ở (không). (Thầy) Tăng tử (ngồi) hầu. — 2. (Đức Phu) tử rằng: (Các vì) vua trước có đạo đức chí yếu (có đức lớn, có nẻo tắc) mới thuận (được người trong) thiên hạ. Dân dùng (mà) hòa (mà) êm; trên dưới không oán (trách nhau.) Ngươi biết (đều) đó chăng? — 3. Thầy Tăng (đứng) tránh khỏi chiếu (mà) rằng: (tôi tên) Sâm chẳng (được) sáng, đủ (sức) đâu mà biết (đều) đó? — 4. (Đức Phu) tử rằng: Vã (chăng) hiếu (là) gốc (đàng) đức vậy, noi (đó mà) ra (việc) dạy vậy. Ngồi lại: Ta bảo (cho) ngươi (rỏ). Mình, vóc, tóc, da, chịu đó (của) cha mẹ; chẳng dám (cho) hư hại; (là) đầu (việc) thảo vậy. (Làm) nên thân (phận), làm (đều) đạo (nghĩa); (bia danh) rỡ tiếng nơi đời sau, cho đặng vinh hiển cha mẹ, (là) rốt (việc) thảo vậy. Vã (chăng) hiếu (thì) trước (là một phải phụng) sự cha mẹ; giữa (là hai phải phụng) sự (vì) vua; sau (là ba phải làm) nên thân (phận). — 5. (Thiên) Đại nhã rằng: Chớ (quên) tưởng (tới) ông bà ngươi, chỉn nối sữa (theo đàng) đức người.


Đức phu tử lúc ở không,
thấy thầy Tăng tử ngồi trông, bèn rằng:
Vua xưa đức cả đạo toàn,
thuận yên thiên hạ, hòa bằng nhơn dân.
Trên không giận, dưới chẳng hờn.
Vì sao ngươi biết được mần rứa chăng?
Thầy Tăng lánh chiếu thưa rằng:
Sâm không được sáng, biết bàn mần răng.—
Đức phu tử mới nói rằng:
Vã chăng hiếu nọ gốc đàng đức kia.
Dạy người lấy đấy làm bia;
lại ngồi ta bảo, chớ lìa chiếu ra:
Cả mình vóc, tới tóc da,
chịu chưng cha mẹ sanh ta vẹn tuyền
Chẳng cho hư hại gây nên,
là đầu lòng thảo kẻ hiền sự thân.
Mình nên, đạo dạy xa gần,
danh thơm tiếng tốt đồn dần đời sau.
Vinh cha hiển mẹ dài lâu,
ấy là lòng thảo đuôi đầu trọn nên.
Vã chăng lòng thảo con hiền,
trước thờ cha mẹ, giữa đền ơn vua.
Sau thì công nghiệp gắn đua,
thân danh đôi chữ ấy tua lập thành.
Câu thi Đại nhã đành rành:
Tổ tiên ngươi nhớ, đức lành người ghi.

   




Chú thích

  1. Thử chương khai trương nhứt kinh chi tông bổn, hiển minh ngủ hiếu chi ngãi lý.
  2. Trịnh thị viết. Hằng niệm tiên tổ, thuật tu kỳ đức.