Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca/Cuốn thứ nhì/Gò Công

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

Gò-Công

Gò-Công phong cảnh thi:

Thanh lịch Gò-công xứ biết chơi,
Địa linh nhơn kiệt quả như lời.
Vỏ-công hùng cứ bia ngàn thuở,
Phạm-Tộc phủ thờ quới một nơi.

Phát trước nhiều ông danh tiếng rạng,
Nối sau chán kẻ hiển vinh đời.
Năm thìn ruổi mắc cơn giông bão,
Dựng lại bằng xưa cũng phước trời.

Gò-công huyện nhỏ một nơi, Mà danh tiếng tốt từ đời Gia-long.
Thuở đương đạo tặc hành hung, Có ông Vỏ-Tánh xưng hùng Tước-nguyên.
Tây-sơn kinh quá đến miền, Kéo ra áp đánh giết liền chẳng tha.
Tụ binh hơn vạn người ta, Giữ gìn nội hạt gần xa an nhàn.
Làu làu một tấm trung cang, Hẫy chờ chúa rạng mới an đề huề.
Nghe Cao-Hoàng, ở Xiêm về, Đem quân bộ hạ chĩnh tề qui lai.
Tam hùng tiếng nổi thuở trai, Ngày nay tá quấc bao nài gian nan.
Hiện còn miễu ở trong làng, Nơi Châu-thành-phố rỏ ràng anh linh.
Một vùn chánh-khí lưu hình, Ngài lên giàn hỏa tại thành Qui-nhơn.
Hồn tiêu phách hóa chi sờn, Phải trang hào kiệt danh huờn non sông.
Bốn mùa hương hỏa thạnh sung, Bởi vì hương chức Gò-công có lòng.
Kẻ nhiều người ít chung cùng, Lập thành Hội-quán-quấc-công miên trường.
Cuộc đời trãi mấy tan thương, Dấu roi thủy thổ quấc vương của mình.
Củng là trung hậu chơn tình, Lưu truyền hậu thế phụng hành chiêu chương.
Gò-công nhiều ruộng ít vườn, Cả trong toàn hạt cao lương địa phì.
Xem trong mấy hạt Nam-kỳ, Gò-công đất nhỏ lắm thì phát quan.
Cựu-trào Quấc-mẩu Tiên-hoàng, Tân-trào kế phát chức sang liền liền.
Đốc-phủ, Phủ, Huyện, quan viên, Tre tàng măn mọc hậu tiền nối nhau.
Bốn tổng dân cư đông giàu, Mà tiếng có một Bà-Hầu giàu to.
Hãi-vật cá, tôm, cua, sò, Thứ tươi thứ hắp thứ kho bộn bàn.
Cải-bẹ xanh, trồng nhẫy tràng, Cải-dưa, ngồng-cải, tiếng càng đồn xa.
Thường khi tiền bạc vô ra, Đủ ăn đủ bận nhà nhà ấm no.
Cà cuống vật cũng lạ cho, Con-đuôn béo ngọt thơm tho mĩ miều.
Chà-là trong ngọn có nhiều, Rừng kề mé biễn mọc đều giăng giăng.
Hết đông sang lại đầu xuân, Chánh mùa ấy có đuôn ăn chà-là.
Vật hay bỗ dưởng người ta, Mấy hạt gần biển sanh ra đuôn nhiều,
Thuở kia Truông-cóc quạnh hiêu, Chỗ nhiều hùn cọp người đều sợ ghê.
Nay đà khẩn phá tư bề, Lợi nhờ rẩy ruộng phủ phê ở đời.
Tiếng xưa đám Lá-tối-trời, Có ông Trương-Định trã phơi gan vàng.
Một phương cờ nghĩa nổi vang, Xưng làm Đại-tướng giúp an Triều-đình.
Ai dè cô chưởng nan minh Lưởi gươm đâm bụng liều mình như chơi.
Nên không số hệ ở trời, Há đem thành bại luận người hùng-anh.
Làm trai cho có thân danh, Dấu bia tạc với non xanh chẳng già.
Nay còn một gã tôi nhà, Tên Đốc-binh-Chấn cũng là thảo ngay.
Bền lòng chẳng chút động day, Đai cơm bầu rượu no say phận nghèo.
Thương thầy gặp lúc hiểm eo, Riêng làm ngôi miểu thờ theo lối vườn.
Viên quan chức sắt bỗn hương, Rủ nhau kiện Chấn tụng-đường lôi thôi.

Kế vừa bảo tới một hồi, Ngày nay chưa biết tu bồi nữa không.
Ngọn rau tấc đất khuyên cùng, Chớ lòng bạc cựu chớ lòng hận tân.
Xưa kia đất ấy những bần, Lá-dừa rậm rạp nhơn dân chưa về.
Ngày nay khai phá ê hề, Đâu đâu bờ cỏi chĩnh tề cân phân.
Bình-phục-nhì thôn cũng gần, Tổng Hòa-đồng-thượng địa phần Rạch-trâu.
Tiếng truyền Rạch ấy đã lâu, Thường niên trâu dậm khỏi âu cạn cùng.
Chuyện thì không mấy lạ lùng, Song mà tập tục phải dùng thuở nay.
Gò Sơn-qui, cảnh tốt thay, Mã quan Thượng-lể chôn ngay giữa chừng.
Ngài là tên Phạm-đăng-Hưng, Đốc sanh Từ-Dủ Tiên-quân Mẩu-hoàng.
Quấc-công truy tặng rỏ ràng, Nhà thờ Phạm-tộc tại làng Giồng-qui.
Tiếng còn thích-lý vỉnh vi, Bông hoa cây trái vật gì cũng xinh.
Thiệt là một chổ địa linh, Phát Hoàng-thái-hậu hiển vinh họ hàng.
Năm trước ngự-giá ngai vàng, Vua Thành-Thới đến viếng an phủ thờ.
Hai bên hương-án đầy bờ, Viên quan Hương-thức chực hờ bái nghinh.
Lể nghi phẩm tiếc nghiêm minh, Cữu-trùng hoan hỉ lạc tình thiên nhan.
Gò-công nước uống gian nan, Mà nơi giồng ấy nước càng ngọt hơn.
Đất nhằm kiết cuộc thủy-sơn, Như mô rùa dạn, thường cơn vun hoài.
Tả long hữu hổ an bài, Hộ phò con cháu rộng dài bền lâu.
Vững vàng giềng mối về sau, Giữ gìn cội gốc sữa trau vun trồng.
Cậu-hai Ân, Cậu-tư Trung, Nay đều thăng thọ ban dùng chức sang.
Hàng-lăm-thị-dản rỏ ràng, Phấn vua ơn nước thêm càng vinh hoa.
Gò-công tiểu hạt tuy là, So bề danh giá ai qua đặng nào.
Ông Huỳnh-công-Tấn ngôi cao, May thời gặp vận như phao một hồi.
Trở thương ông Định vừa rồi, Quấc-gia trọng thưởng chức ngồi Lảnh-binh.
Nổi lên sự nghiệp hiển vinh. Mau tràng mau nhẩy như chình nước nghiên.
Cuộc chơi chẳng tiết đồng tiền, Đá cân làm bạc vạn thiên chi màng.
Mấy năm oanh liệc một tràng, Ruộng vườn dinh dảy giàu sang ai bì.
Sự đời nháy mắt hưng suy, Thiên cơ báo ứng tốc trì hiển nhiên.
Bao nhiêu hoa ốc phi điền, Lang tôn quế tữ hóa miền không không.
May còn thạch trụ ghi công, Dựng nơi trước chợ Gò-công rỏ ràng.
Còn hội Chùa-ông trong làng, Nguyên khi Ông-Tấn làm quan có quyền.
Cúng vào một sở gia điền, Rủ thêm hương chức chung tiền lập ra.
Ngày nay huê lợi ruộng nhà, Mỗi năm thâu đặng hơn ba trăm đồng.
Anh em trong hội niệm lòng, Nơi nhà Tiền-Vãn tại dòng trung gian.
Thờ Huỳnh-công-Tấn nghiêm trang, Có hai câu đối rở ràng còn nguyên.

Câu đối ông Đốc phủ Tường điếu ông Lảnh-Tấn:

富貴是倘來轟烈雄心輕一擲
聲名應不朽抑揚公論付千秋

Dinh quan Chánh-bố phía tiên, Nhà-thương nhà-phước cất liền xanh quanh.
Đình thần ở giữa châu thành, Trước thì Nhà-việt rộng thinh hai bề.
Xe hai bánh sắm ê hề, Ghe-lồng ghe-cữa các bề đẹp đông.
Văn chương đờn địch sảo thông, Rổ-ô lại với mát-thong khéo nghề.
Miểu chùa tuy ở xứ quê, Lể nghi tế tự chỉnh tề thạnh sung.
Gốc nhờ đạo thánh vung trồng, Nên người khẳn khái hẩy lòng sắt son.
Tang, Hôn, phẩm tiết vuôn tròn, Vãn lai thù tạc tục còn tương đôn.
Hòa-lạc-hạ, Bình-ân-thôn, Thành-hoàng miểu vỏ nghiểm tôn tu bồi.
Bảy lầu bảy nóc một ngôi, Qui mô cách thức chiếm khôi các đình.
Tước-nguyên chỗ thiệt có danh, Giàu sang cũng lắm lịch thanh cũng nhiều.
Đường nước không có bao nhiêu, Từ vàm vô chợ rạch đều quanh co.
Đã có xà-lúc tàu đò, Lại thêm Lục-tĩnh tàu to ghé hoài.
Rạch-chùa cầu bến ở ngoài, Mỗi tuần Chúa-nhựt đặng vài lần qua.
Côn, Kình, bặc dấu phong ba, Người an nệm chiếu hãi hà bất dương,
Mới lập đôi sở Thánh-đường, Đọc kinh xem lễ ngày thường chưa đông.
Trường-quan trường-tỗng ngoài trong, Mấy thầy dạy dỗ vẹn xong phận mình.
Hậu sanh cần mẫn học hành, Dần qua trường lớn tạo thành hữu nhơn.
Ông Chủ Thiều, ông Huyện-Nguơn, Với thầy Tú-Hội rượu đờn phú thi.
Ông Quãn-Tá chuyên nghiệp y, Chủ-Hùng, Cã-Thuận đều qui diêm-đình.
Ông-Tá nho nhã hiền lành, Ông-Hùng, Ông-Thuận miểu đình sữa sang.
Thương thay thế biến ly loàn, Khuôn viên lớp trước điêu tàn không lưa.
Hồi còn đạo học dây dưa, Văn chương phong nhã cách chưa tiêu mòn.
Lâu lâu qua đến đời con, Thói đời lần đỗi vuôn tròn đặng đâu.
Vậy nên mấy cậu sanh sau, Chữ Tây ăn học lo cầu xuất thân.
Thầy Phó-tỗng, Huỳnh-đình-Ngân, Việc quan khẳn khái thận cần mẫn thông.
Trước làm Địa-hạt Hội-đồng. Mỗi khi nhóm cãi Gò-công đặng nhờ.
Gốc nhà nghĩa chỉ nhơn cơ, Cha xưa biết học đến giờ còn danh.
Hiện tồn sự nghiệp kinh dinh, Mẹ thì giàu lớn châu thành Tước-nguyên.
Chợ-Giồng thầy Cai-tổng Yên, Người thông chữ nghỉa đức hiền tánh chơn.
Xã-thôn nhiều kẻ man ơn, So coi các tỗng tốt hơn người nhiều.
Lắm trang gia phú lẩn kiêu, Tiềm trang kinh sữ vắn hiêu trong làng.
Giáp-thìn trận bão tan hoan, Bước qua Ất-tị họa man cào cào.
Gò-công xiết mấy hư hao, Trời sanh trời dưởng biết sao mà phòng.