Bước tới nội dung

Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca/Cuốn thứ nhì/Rạch Giá

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

Rạch-Giá

Rạch-Giá Phong cảnh thi:

Vui tình hứng cảnh xứ Kiên-giang,
Dâu bể đỗi dời khéo sữa sang.
Chánh-bố-đường, lầu đài tráng lệ,
Vỉnh-thanh-vân phố xá nghiêm trang.
Chôn bùn ngọn bút ngời màu chử,
Giằm các trành gươm lố cốt gan.
Hòn đất hòn tre non nước tạt,
Ghe phen giúp đỡ đức Cao-hoàng.

Rạch-giá nguyên huyện Kiên-giang, Thuộc Hà-tiên tỉnh rừng hoan tư bề.
Xưa kia hiu quạnh xứ quê, Bây giờ thành phố chỉnh tề sữa sang.
Bố đường cao rộng nghiêm trang, Ngó ra kề biển thanh quan đẹp tình.
Nhà chợ một nóc thinh thinh, Cầu đường sạch sẻ châu thành vẻn vang.
Vỉnh-thanh-vân xã một làng, Chánh thôn sở tại kĩ cang đâu bằng.
Nhờ quan chánh-bố La-Răng, Qui mô sắp đặt bỗn căng vững vàng.
Hớn Thổ sáu mươi chín làng, Mà bề lịch tốt là làng Thanh-vân.
An-nam không có đình thần, Theo Mên theo Khách lo phần cúng chung.
Bởi vì người ở mới đông, Lể nghi phép tắc chưa thông đủ đều.
Chùa-bà hương hỏa dập dều, Chùa-ông Bắt-đế biết nhiêu tôn sùng.
Chùa-ông-bổn, với Chùa-ông, Các chùa phật Thổ các giồng xanh quanh.
Vỉnh-thanh-vân, cảnh đẹp xinh, Bởi Trần-chánh-Chiếu công trình sữa sang.
Bốn năm làm xã gian nan, Gốc nguyên chức trước đứng bàn thông-ngôn.
Tánh người lanh lợi khéo khôn, Xuất thân trợ sự nội thôn châu thành.
Mở mang sắp đặt cải canh, Phố phường chợ búa phân minh tư bề.
Đâu đâu thảy có luật lề, Dân du lính tập chẳng hề dám ngang.
Sổ thâu sổ xuất kỉ càng, Nhà dân số hiệu rỏ ràng không sai.
Vinh thăng Tri-phủ văn dai, Quốc gia ân hậu lâu dài hiển vinh.

Nối làm chủ-bút nhựt trình, Với ông Huyện-Trụ kinh dinh sắp bày.
Phò trì phong hóa rất hay, Gọi là Nông-cổ tháng ngày công lao.
Thánh hiền tào phách bì mao, Còn trong đạo vị chút nào cũng may.
Kiếm tìm sự tích xưa nay, Chuyện chi hữu ích in rày để coi.
Tay cầm ban quản một ngòi, Nôm na dấu để gương soi đành rành.
Người xưa khoa-mục học hành, Ông Tuần-phủ-Đạt Triều-đình chuộng yêu.
Phú thi ngâm vịnh rất nhiều, Tác thành môn đệ người đều lớn khôn.
Nay còn để dấu khương tôn, Văn chương lể nghĩa thập tồn nhị tam.
Lăm tuyền ẩn dật tự cam, Tánh thầy Nhiêu-Chánh không kham theo đời.
Mấy năm chẳng chịu dạy người, Dần dần tiêu mất hết mười phần nhu.
Càngngày kinh sữ hoan vu, Song mà phong tục tạc thù tương đôn.
Tập thành phong hóa các thôn, Ruột gan khẳn khái lưu tồn hiếu trung.
Kiên-giang ngoài biển trong đồng, Trải xem thổ sảng đồ dùng biết bao.
Cá-thu cá-cháy cá-cào, Mựt tươi khô gộc con hàu con đuông.
Cá đồng rạch trữ luôn luôn, Nghề riêng mắm-ruốt ngàn muôn bạc tiền.
Làm ăn đất tốt nước hiền, Gạo thơm trắng dẻo có liền cả năm.
Dưa-môn bán cũng tiền trăm, Mùa ong sáp mật đi thăm đầy rùng.
Sân chim thay đổi không chừng, Tại nơi Cái-lớn trong rừng lạ thay.
Hoặc là chổ đó năm nay, Lai niên chổ khác gần rầy một bên.
Giữa rừng dây choại kẹo lền, Chim bay đáp xuống hóa nên sân bằng.
Người ta khéo kiếm làm ăn, Lớp phơi lòng thịt lớp căng mở dầu.
Mà chim chẳng chịu đi đâu, Mổi năm mổi bị tróc câu một lần.
Đã hay vật dỉ dưởng dân, Dưởng mà không đủ cứu bần trợ nguy.
Nở nào giết hết tông chi, Tưởng nghề sanh lý thiếu chi mà tìm.
Lâu nay mấy chú hại chim, Thường khi ngó thấy liêm diêm nghèo hoài.
Chiếu bong khổ vắn khổ dài, Dệt ba bốn hạng cũng tài trong tay.
Xứ Rạch-giá, các thứ cây, Tràm nhum kè giá nhẩy đầy rừng hoan.
Ruộng khai khẩn đất cả ngàn, Ruộng đâu kinh đó sẳng sàng người ta.
Cái-bé, Cái-lớn, thẳng qua, Dân cư theo xóm đều là nghiệp nông.
Ngặt vì nước biễn mặn nồng, Cây trái khó trồng người ở chưa đông.
Xáng đào kinh rạch đều thông, Ngày sau đây cũng thạnh sung như thường.
Thổ-châu là xóm hiền lương, Tục kêu Hòn-đất nhiều vườn trồng tiêu.
Cà ràng trách trã quá nhiều, Làm rồi đốt trấu hằm đều đem ra.
Không như đất sét của ta, Đất coi xốp bở làm đà quá mau.
Bán cùng thiên-hạ đâu đâu, Dân nhờ huê lợi bền lâu xây dùng.
Thuở Cao-hoàng-đế Gia-Long, Lắm khi trú tất ruổi dung lánh nàn.
Sử xanh còn chép rở ràng, Ngọn rau tấc đất thấy càng cảm thâm.
Hòn-tre hình tợ rùa nằm, Quan tây mới khẩn mấy năm lập vườn.
Cũng là khôn khéo lo lường, Hao công tốn của lập đường về sau.
Nay đà cây trái tốt mầu, Dần dần hoa lợi góp thâu đặng nhờ.
Thon von giữa biển cỗi bờ, Siêng thời gầy dựng tư cơ chỉnh tề.
Tốt thay phong cảnh Hòn-tre, Kiên-giang ngoại án xa che diện tiền.

Có cái hang, ở tả biên, Rộng hơn mười trượng miệng viên hẹp hòi.
Đứng ngoài nhắm nhía mà coi, Có một cái mái hẳng hòi quá to.
Cớ sao đem lọt nó vô, Chẳng hay khi trước lớp mô để đời.
Sốc Mên xóm ở các nơi, Dân đều nghề nghiệp thảnh thơi trong nhà.
Chùa Mên thờ phật các tòa, Lể nghi tập tục như là Trà-vinh.
Trời cho đất nước hiền lành, Trên bờ dưới biển dinh sanh dể dàng.
Nhà giàu tiền của muôn vàng, Nhà nghèo cũng đủ rảnh rang không cầu.
Mé ngoài giáp đến Cà-mau, Mé trong giáp đến địa đầu Hà-tiên.
Phía Tây giáp lại Long-xuyên, Cả trong toàn hạt ruộng liền với kinh.
Học trường sỉ tữ linh tinh, Một trường Rạch-giá châu-thành thạnh sung.
Bởi thầy Đốc-Thiện có công, Sớm khuya dạy dỗ đồng mông tấc tình.
Có con gái, biết học hành, Dạy nơi trường gái cũng vinh phận nhàn.
Người trong son phấn điểm trang, Nhờ cha dạy dổ danh sang mỷ miều.
Sách đèn gắn sức mơi chiều, Văn phòng tứ bữu thiệt nhiều thú xinh.
Kiên-giang Huyện nhỏ có danh, Ở theo mé biển đất bình rộng thinh.
Diện tiền hải thủy minh minh, Bải cồn bốn phía ghe khinh bị chìm.
Thường khi buôn bán trong Xiêm, Trời thanh biển lặng thuận êm khá lời.
Tàu Hải-nam thường tới chơi, Chở đồ tạp hóa tạnh trời năn qua.
Thứ-năm, Thứ-sáu, Thứ-ba, Thứ-tư, Thứ-nhứt, với là Thứ-hai.
Bảy, Tám, Chín, Mười, quá dài, Tên mười cữa biển đi hoài vòng nong.
Nhà dân rải rát cũng đông, Giáp Bạc-liêu hạt minh mông biển rừng.
Phía bên Rạch-giá có phần, Phía Cà-mau phủ có chừng hạng ranh.
Ngày nay lúa ruộng thâu thành, Cần-thơ thứ nhứt nhị đành Kiên-giang.
Bấy năm khai phá đất hoan, Đào kinh mở rạch ngỗn ngang tư bề.
Nên ra đất tốt ê hề, Đất đâu lúa đó phủ phê nhẫy tràng.
Mấy ông hào hộ lắm trang, Ăn chơi gan ruột giàu càng lịch thanh.