Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca/Cuốn thứ nhứt/Sài Gòn

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

Sài-Gòn

Sài-gòn phong cản hthi:

Khen bấy Sài-gòn định giới cương,
Lăng xăng ngã ngách dọc ngang đường.
Cột cờ Thủ-ngữ xây trăm trượng,
Trại lính Hội-đồng trấn một phương.
Dinh dảy cữa nhà chen thứ lớp,
Bạc vàng su lúi đỗi cang thường.
Phiền ba xiết kể nay thanh lịch,
Lể nghĩa ngày xưa chạnh nổi thương.

Sàigon kinh ký phong cương, Quan quân đô hội cầu đường lịnh xinh.
Nguyên xưa Gia-định tỉnh thành, Biễn dâu đổi cuộc nay thành phiền ba.
Nhứt là đường Ca-ti-na (Catinat), Hai bên lầu cát phố nhà phân minh.
Bực thềm lót đá sạch tinh, Các cữa hàng bán lịch thanh tốt đều.
Máy may mấy chổ quá nhiều, Các tiệm tủ ghế dập dều phô trương.
Đồ sành đồ cẩn đồ đương, Đồ thêu đồ chạm trữ thường thiếu chi.
Những đồ Đại-pháp, Huê-kỳ, An-lê, Nhựt-bỗn, món gì cũng sang.

Hàng tây các sắp nhẫy tràng, Xiêm, Mên, Bắc-thảo, đồ đoàn bố vi.
Chực đường có trẻ cu-li (coolie), Kêu đâu sẳng đó đem đi lẹ làng.
Lớp thời xuống bến Nam-vang, Lớp qua Khánh-hội lớp sang Nhà-rồng.
Lớp xe về lối ngoài trong, Lớp đi theo dỏi mấy ông dọn nhà.
Nhà-in, nhà-thuốc, nhà-chà, Nhà hàng ăn ngủ với nhà Lạc-xon (l’auction).
Chổ ăn chổ ngủ đều ngọn, Thong thả lại còn uống rượu đánh lăng.
Phong lưu cách điệu ai bằng, Đường đi trơn láng đèn giăng sáng lòa.
Thứ năm thứ bảy thứ ba, Với đêm chúa nhựt hát nhà hát tây.
Nước nào tục nấy cũng hay, Tiếng đờn tiếng hát nghe say tánh tình.
Nhà hát cất giữa châu-thành, Họa đồ lấy kiểu bên thành Ba-ri (Paris).
Nữa năm hát tại Nam-kỳ, Nữa năm về xứ Ba-ri của mình.
Tháng năm cất gánh qui trình, Tháng mười thời lại Nam hành một khi.
Coi thì cũng một đường đi, So trong lịch sự đâu bì Ti-na (Catinat).
Khi nào có rước quan gia, Với khi lể lớn thiệt là kỷ cang.
Đôi bên cờ dựng rở ràng, Tuần binh sắc phục chửng chàng nghi dung.
Ro-đôm (Norodom) bốn phía dựng cùng, Với trước nhà hát một vùng Bô-na (Bonard).
Bóng cây im mát diềm già, Nhà thờ Thiên-Chúa ngay mà trung tim.
Đá xây bốn phía vách thềm, Mặc nền hoa thạch trơn êm làu làu.
Lầu chuông chót vót vọi sâu, Hai cây thánh giá hai đầu trên cao.
Đồng hồ chỉ đúng khắc sao, Người qua kẻ lại nhắm vào phân minh.
Đức-Bà tượng đá trắng tinh, Mấy đầu cột đấp hoa hình khuôn viên.
Tốn dư muôn triệu bạc tiền, Lập thành cơ chỉ vạng niên thái bình.
Mổi tuần xem lể đọc kinh, Tiếng đờn tiếng hát âm thinh rập ràng.
Hai bên thứ lớp ghế bàn, Sạch sẻ kỷ càng đủ sắc quan dân.
Vừa khi thái-tuế Nhâm-dần, Tháng hai mồng một tảo thần bày ra.
Ngày tây mồng mười tháng ba, Nhứt thiên cửu bách lẻ mà hai năm.
Bảy giờ xe ngựa xâm xâm, Các quan thẳng tới thảy khâm kính đều.
Y quan rực rở dập dều, Đức-cha trần thiết lể điều tạ an.
Mấy ông chức lớn ngôi sang, Đít-cua (Discours) miệng đọc kỷ cang tỏ nhầm.
Người coi đô hội ngàn trăm, Thấy hình cha cả tay cầm bức thơ.
Hình Đông-cung Cảnh bé thơ, Coi inh hồi nhỏ ngẩn ngơ Ri-thành (Pondichéry).
Dung nghi phưởng phất như sanh, Mĩa mai hổ bộ long hành tốt thay.
Biết bao ân ngỡi Đức-thầy, Chịu lời ký thát nặng dày công lao.
Muôn trùng tách dặm ba đào, Uống sương ăn tuyết chẳng nao núng lòng.
Gương trung chói rạng hình đồng, Tay diều Thái-tữ Đông-cung chẳng rời.
Tích xưa tạt để đời đời, Phận là Quân tể tình thời sư-sanh.
Trải qua mấy lúc cải canh, Cơ trời đã khiến hư dinh tuần huờn.
Của dân ba vạn có hơn, Phụ thêm nhà nước ra ơn giúp tiền.
Thánh đường cội gốc nam thiên, Đúc nên hai tượng dựng liền trước sân.
Gẩm duyên hội ngộ có phần, Đâu quan Cần chánh Nguyển-Thân mới vào.
Trọng niềm Pháp, Việt, ban giao, Nhớ xưa sự tích lòng nào phui pha.
Lầu Đức-giám-mục thẳng qua, Cúng ba trăm bạc gọi là thảo đơn.

Nặng nề vì nghĩa vì nhơn, Vì nơi danh giá vì cơn tao phùng.
Tiệc bày thết đải Nguyển-công, Chủ tân thù tạt khiêm cung đủ đều.
Hậu tình quá nỗi kỉnh yêu, Mừng vui chưa phỉ bấy nhiêu chuyện trò.
Ngài đà tách dặm trường đồ, Đu-Me (Doumer) Tổng-thống tàu đò sang Tây
Đều là giúp nước hết ngay, Trí mưu thâm viển phải tay đại-thần.
Bên nhà Thiên-chúa rất gần, Có tòa giây thép coi phần điển thơ.
Hạt kia hạt nọ giấy tờ, Kẻ lui người tới âm thơ dập dều.
Man-đa (mandat) chẵng biết bao nhiêu, Gởi đem đồ đạt cũng nhiều nơi đi.
Mua cò tín-chỉ thiếu chi, Chánh trung có chỗ kêu thì thùng thơ.
Chẵng hề trể nải đợi chờ, Lon-ton (Facteur) cứ lệ tới giờ soạn đam.
Ví dầu đông bắc tay nam, Đâu đâu cũng thấu cơ giam nhiệm mầu.
Thiệt là trí hóa cơ cầu, Làm ra giản tiện lẹ mau dân nhờ.
Biên-hòa còn dụng xe tờ, Mới bày bây giờ xe máy Tây-ninh.
Toàn-quyền Tổng-thống Đại-dinh, Tứ vi song sắt tiền đình nghiêm trang.
Ngoài thời có cữa tam quang, Trong thời lầu cát dọc ngang nhiều từng.
Đá bông xây lót dưới chưn, Lên thang xuống cấp sáng trưng đêm ngày.
Mấy người liêu thuộc chơn tay, Mỗi tuần chúa nhựt một ngày nghỉ công.
Ngang qua đường Mặt-má-hồng (Mac-Mahon),
Ro-đom (Norodom) phía trước giữa lòng rộng ngay.
Sau dinh có sở vườn cây, Vườn của Thành-phố Xã-tây tạo thành.
Bồ-rô (jardin de la ville) roi dấu hiệu danh, Để khi nhàn hứng thích tình du quan.
Có ngôi mã đá bỏ hoan, Xây xôi bền chắc vững vàng ngoài trong.
Hãy còn ở giữa bồn bông, Lâu dài sánh với non sông chẳng già.
Cách ba trăm thước không xa, Ba hình ngó xuống đường là Bê-ranh (Pellerin).
Các nơi Pháp-quấc tĩnh thành, Có ba hình ấy xanh quanh dựng cùng.
Cớ sao đem tới Nam-trung, Nguyên vì một chỗ không sung bạc tiền.
Vậy nên chuyên chở xa miền, Huờn công cho thợ vốn tiền bên nây.
Dư xài mua giúp cũng hay, Lại là roi dấu những tay tài tình.
Bỗn-quấc (Chasseloup-Laubat) trường gốc học hành,
Văn-chương dạy dỗ rỏ rành trang nghiêm.
Giờ học bốn phía lặng im, Ghế bàn đâu đó khiêm khiêm kĩnh nhường.
Chia ra bên nọ một phương, Cho con tây học tiền trường Xã-tây.
Lại còn một phía bên nây, Bá-công-kị-nghệ (Professionnel) có thầy dạy riêng.
Nam-kỳ sỉ tữ tinh chuyên, Nhiều người thành đạt liền liền trước sau.
Ta-be (Taberd) trường lập đã lâu, Đờ-kẹt-lăng (Dekerland) trước làm đầu khởi ra.
Thương con nít thể ruột rà, Cũa nhà tự xuất lập mà Ta-be.
Ơn nhờ Thiên-chúa chở che, Lần lần sung thạnh ngày khoe hạo phiền.
Đời Đức-cha Mỷ càng siêng, Đem thầy dòng lại mối giềng mở mang.
Thông minh hậu tấn bộn bàn, Học rồi thi đậu làm quan cũng nhiều.
Nhớ xưa công nặng dắc dều, Dung nghi mô phạm quạnh hiêu bao đành.
Chung tiền tạt đúc trượng hình, Dựng trước trường học gọi tình thảo chăng.
Rỏ ràng ông Đờ-kẹt-Lăng, Ngàn thu trông ngó xem bằng đẩu-sơn.

Thiệt là hậu ngải thăm ơn, Nay còn Bỗn-hội đồng nhơn nội trường.
Những người Phủ Huyện viển phương, Thông-ngôn, Thông phán trãi phường dinh quê.
Mổi năm một bữa Hội-tề, Lể Băn-tờ-cốt (Pentecôte) đều về yến diên.
Tốt thay phong hóa roi truyền, Cho con vào đó tốn tiền cũng ưng.
Có con ai chẳng thương cưng, Nên đặng thời mừng đẹp mặt cha mẹ.
La-tinh trường gốc các cha, Của trong hội thánh lập đà mấy thu.
Để mà dạy những thầy tu, Coi trong tánh hạnh cang nhu thể nào.
Văn chương mẹo mực dường bao, Lựa cho phải mặt mới vào làm cha.
Người thời lỡ bước trở ra, Người thời trì chí lâu mà luyện am.
Linh mục chức không dể làm, Hai bên tài đức đều kham mới thành.
Sở cọp trường nhỏ cũng danh, Lập tại châu-thành đường sá quân phân.
Gội nhuần nhà nước thi ân, Bày ra phương tiện cho dân dể dàn.
Mấy người nghèo khỗ cơ hàng, Đem con ăn học vửng an tấm lòng.
Lớp lang nghiêm chỉnh ngoài trong, Lần qua trường lớn thành công làm thầy.
Vui xem con nít đông dầy, Gắng siêng đèn sách sau rày đêu nên.
Trường con gái ở một bên, Cách bày dạy dỗ vửng bền lắm thay.
Trường của thành phố xã-tây, Nử-sư Pháp-quấc làm thầy thuở nay.
Dạy vừa thêu tiểu vá may, Tiếng tâm chử nghỉa cho hay mọi nghề.
Gái Phan-sa học bộn bề, Học chử học nghề thêm trí thông minh.
Làm ra phong hóa lịch xinh, Sắc tài gồm đủ đặng vinh cho mình.
Sơn-đá (soldat) chỗ thành bộ binh, Ba từng lầu cất phân minh vửng bền.
Dấu còn thành củ vách phên, Nay làm một sở cội nền quấc gia.
Quan một, quan hai, quan ba, Dạy quân hàng ngủ vào ra chỉnh tề.
Binh thơ các phép luật lề, Ngày ngày học tập chẳng hề đơn sai.
Thái bình thường bữa dồi mài, Gặp cơn bát loạn chi nài đục xông.
Bởi vì dự bị sẳng xong, Để cơn cảng vệ để phòng xuất chinh.
Dưới tàu thì có thủy binh, Lớp tuần ngoài biển lớp đình trong sông.
Thủy thời có soái thủy công, Bộ thời có soái bộ công hẳng hòi.
Đâu đâu phần trị phần coi, Miệng hô kèn thổi như thoi trở liền.
Ba-son (arsenal) là sở tạo thuyền, Đủ các thứ thợ liền liền làm công.
Thợ rèn nóng nguội song song, Phận ai làm nấy cho xong mới nhàn.
Thợ bào, thợ dũa, thợ khoan, Thợ mộc đóng ghế, đóng bàn, tủ, rương.
Thợ sơn với thợ xảm đương, Thợ hàng thợ thiết các phường còn đông.
Cập-rằng là kẻ đầu công, Những trang thơ-ký thảy thông toán đề.
Đâu đâu thứ lớp nghiêm tề, Chỉnh tu thuyền lảm tư bề nhuệ kiên.
Ụ tàu an đốn cận biên, Chờ khi tu bổ hỏa thuyền đem vô.
Thiệt là lợi thiệp hải hồ, Nước giàu binh mạnh cơ đồ muôn năm.
Sỡ-mộ (Artillerie) chứa súng ngàn trăm, Kho để trái phá chất nằm ngổn ngang.
Kho-đạn, kho thuốc, kho thang. Kho bánh rượu thịt để ban binh biền.
Hình Nguyên-soái cận giang biên, Ngó ra sông lớn phía tiền oai nghi.
Tên-gọi Đờ-rơ-nu-di (Rigault de Genouilly), Đường-đường-diện mạo tu mi anh hùng.

Thống lảnh các đạo binh nhung, Tam quân tư mạng chuyên trong trướng hùm.
Tám trăm năm chục tám năm(1858), Nhắm Đà-nẳm tấn xâm xâm ghé hòn.
Năm mươi chín, lấy Sài-gòn (1859), Công lao sự tích sữ còn chép ghi.
Ngàn thu đồng sắt tri tri, Rỏ ràng nét chử y nguy tạt đề.
Gần đó Đờ-la-cờ-rê (De Lagrée), Biểu dương thạch trụ bởi về niệm công.
Dạo xem các xứ Mê-công (Mé-khong), Cỏi bờ hình thế hiễu thông đặng nhiều.
Địa đồ mấy bức họa miêu, Dầm-dề sương tuyết biết nhiêu dặm trường.
Rủi ro bịnh mất giữa đường, Dấu rơi nhà nước thường thường kĩnh yêu.
Đá xây tích để tạt biêu, Người qua kẻ lại mơi chiều ngợi danh.
Trước Nhà-hát cũng một hình, Gạt-Nhê (Francis-Garnier) thuở nọ liều mình hết ngay.
Bị trận Cầu-giấy đến nay, Ngàn thu diện mạo trày trày nét da.
Đông-dương Thương-chánh một toà, Chỗ là tiền bạc Quấc-gia cội nguồn.
Thâu vào ức triệu luôn luôn, Chi tiêu các sở ngàn muôn cậy nhờ.
Lý tài trên khéo tri cơ, Làm ra giàu mạnh tư cơ lâu dài.
Thượng-thơ Chĩnh-đốn trong ngoài, Ngăn phòng thứ lớp an bài nghiêm trang.
Mỗi phòng đều có đầu quan, Thông-ngôn Thơ-ký các bàn An-nam,
Công việc phận ai nấy làm, Hai bên nhứt, nhị, tứ, tam bốn phòng.
Mối giềng sáu tĩnh giao thông, Đâu đâu sổ sách công đồng phân minh.
Hội-đồng-nghị-viện trung dinh, Các ông Quản-hạt thích tình bẻ bai.
Tre tang măng mọc nối hoài, Lớp xưa tuyển cử ai ai cũng tài,
Lớp sau thay đổi mấy ngài, Biện thiệp đa tài quen thuộc nói năng.
Thượng-thơ là chỗ bỗn căng, Việc-quan các hạt công văn rất nhiều.
Kho sách, sách biết bao nhiêu, Các-quan lui tới thảy đều coi chơi.
Ghế bàn đâu đó sẵng nơi, Cổ kim sự tính chuyện đời chiêu chương.
Phiên-dịch chổ gốc văn chương, Tiếng tâm chữ nghĩa các phương nhiệm mầu.
Ông Diệp-văn-Cương đứng đầu, Tây nam hai phía thích câu phân bài.
Thông minh kiến trọng Hiến-đài, Thiên tư mẫn đạt khâm hoài hào ba.
Lương bằng Tham-biện hạng ba, Thật nhờ hậu ý Quốc-gia dưỡng hiền.
Tánh hay hiếu kỉnh từ huyên, Tạo đoan phu phụ trọn nguyền thỉ chung.
Bạn thời chỉ tín một lòng, Lắm khi tế hiễm trợ cùng anh em.
Phải trang học hạnh lưởng kiêm, Hoanh hoanh liệt liệt khiêm khiêm đủ đều.
Khi nhàn thi tửu vịnh diêu, Vô ưu vô lự mỉ miều phong nghi.
Coi ra trung bối Nam-kỳ, Tài danh bực ấy kém gì Thanh-Liên.

Coi bài thơ phía sau:

稱譽過情君子恥之古人有是言也忝著 
南圻風俗人物演歌于葉使君人品甚 
有取焉爰贈一詩以誌 
詩云 
誰似曹彬貴得錢國恩家慶子孫䝨 
雲龍會合隨安遇鷄鶴班行咱自然 
通籍保全名與志一生剛直福成緣 
北堂尚在年強壯承奉公能孝所先 
己酉春王二月阮蓮𡶶敬題 

Bùi-quang-Nhơn, cũng sỉ hiền, Với Trương-minh-Ký huỳnh tuyền ra chơi.
Tử sanh số mạnh ở Trời, Song tình cảm khái bời bời nhớ thương.
Thuở trước ông Tôn-thọ-Tường, Làm Đốc-phủ-sứ văn chương lảo thành.
Tao-đàng sáu tỉnh biết danh, Mấy năm hoạn thự liêm thanh thận cần.
Bạn cùng Cữ-Trị tương thân, Tánh hay kỉnh sỉ xa gần ngợi phong.
Cử-Trị ăn ở lạ lùng, Áo quần xịt xạt điên khùng quá tay.
Gặp Tường thời Trị mắng ngay, Bởi vì tà tửu ít hay kiên dè.
Họa thơ chống chỏi chê đè, Tai ngơ danh lợi chẳng nghe chẳng cầu.
Ông Tường không dạ chấp câu, Mặc dầu kêu ngựa kêu trâu thích tình.
Đều là tương trợ thành danh, Đã lâu về cỏi âm-minh xa miền.
Tiết thương đạo vị thánh hiền, Chừ luôn nhắc lại cảm phiền lắm thay.
Thống-đốc độ lượng cao dày, Đờ-la-mốt (De Lamothe) lại ước rày mấy trăng.
Phải trang văn học Đại-thần, Nhơn tâm thiện chánh chuẩn thằng lục châu.
Nước nhà nuôi sỉ ơn sâu, Học chánh là chổ làm đầu giáo quan.
Tam-tòa trên dưới dọc ngang, Các phòng các sở nghiêm trang tư bề.

Xử hình, xử hộ chỉnh tề, Rung chuông hiệu lịnh thường lề thuở nay.
Trạng-sư lý đoán đặt bày, Ra công cải lẩy vạy ngay trước tòa.
Quan to quan nhỏ tại tòa, Gốc nơi Chưỡng-lý phân ra các đường.
Khám-lớn là chổ ngục đường, Khuôn viên bốn phía vách tường xây cao.
Canh giờ nghiêm nhặc ra vào, Gái trai phân biệt khi nào thấy nhau.
Phạm nhơn kẻ trước người sau, Kẻ can tội nhẹ người đau trọng hình.
Cậy nghề đương đát giải tình, Thương thay nhứt nhựt đã đành thiên thu.
Nhản tiền thấy nhửng đảng du, Làm hung mắc án ở tù biết bao.
Khỏi ra rồi cũng chẳng nao, Cứ theo thói củ ồn ào đã quen.
Mu-dích (Musique) nơi các bồn kèn, Vui lòng hứng chí nghe bèn giải khuây.
Sở nấu nha-phiến đông dầy, An-nam Các-chú thường ngày làm công.
Mùi hương thơm ngát ngoài trong, Thẫu-ô thẩu-bạch thuốc thùng chứa trên.
Dưới lầu hộp sấp kẹo lền, Ống cho thuốc xuống cân nên lẹ làn.
Bán đi các hạt muôn ngàn, Yên hà thích thú người càng vui say.
Châu thành một sở xã-tây, Bạc tiền thành phố càng ngày càng sung.
Giữa đường Kính-lấp (Charner) chánh trung, Lâu đài đường sá rộng thông tư bề.
Quan thầy thuốc, quan Nô-te (Notaire), Quan Thanh-tra với các đề hình quan.
Canh-nông ảnh-tướng bá bang, Tạp-tụng sanh-ý các hàng nhà thương.
Sáu tĩnh nhà cữa cầu đường, Gốc bên Tạo-tát sữa đương cầm quyền.
Tiếng kêu là sở Trường-tiền, Hai mươi hai hạt mối giềng âu lo.
Khám-đạt là sở họa đồ, Nam-kỳ ruộng đất sấp đo điệp trùng.
Quan Kinh-lý, Mai-văn-Cung, Thật người cần cáng mà công nghiệp nhiều.
Tánh hay không lẩn không kiêu, Quấc-gia hậu lộc chuộng yêu người tài.
Dinh, Quan, Bính, Lắm, Sang, Tài, Với Phạm-ngọc-Chiếu bãy ngài có danh.
Vẻ vời ăn nói khôn lanh, Công lao giúp nước đã đành tạc ghi.
Quan trên người phải thương vì, Làm lâu thêm trí thi vi bộn bề.
Kho-bạc trữ bạc ê hề, Phần về quản-hạt phần về Đông-dương.
Tuần thành bót (poste) các nẻo đường, Gốc nơi Cò-nhứt phô trương có phần.
Lính tuần lính kín cắt phân, Tuần do kiễm xét coi chừng thừa cơ.
Chẳng cho gian tế ơ hờ, Luân phiên chuyễn thứ cứ giờ đỗi thay.
Đại thương các hảng ở đầy, Các nhà lãnh sự đều rày lịch thanh.
Nhà-kín cách tu ép mình, Giữ chặc tánh tình như gắn keo sơn.
Nhà-mồ-côi thật có nhơn, Gặp con cô độc ra ơn giúp nàn.
Đem về hoạn dưởng gian nan, Tây, Nam, bất loạn hai đàng con ai.
Tục kêu Nhà-trắng lâu dài, Lớp lang nghiêm chĩnh từ ngoài đến trong.
Giữ gìn nữ hạnh nữ công, Lớn khôn thời gã lấy chồng làm ăn.
Đâu đâu có lớp có ngăn, Sữa đương giềng mối lăng xăng bĩ bàng.
Lắm nhà quyền chức giàu sang, Đem con vào học lòng an chịu tiền.
Chịu tiền thì để cách riêng, Các Bà dạy dỗ nhọc siêng đêm ngày.
Tiếng tâm thêu tiểu vá may, Văn chương chữ nghỉa học hay rỏ ràng.
Chuyện làm phải nghĩa rở ràng, Ơn nhờ Nhà-nước giúp đàng tiện nghi.
Mỗi năm chịu bạc bồ chì, Giao cho Bà-phước đễ khi xây dùng.

Có chỗ cân giờ nhựt trung, Trên tàu Ông-thượng đặt vòng Địa-la.
Còn năm ba phút vậy mà, Đem đồ hiệu lịnh kéo qua cột cờ.
Đợi đến đúng mười hai giờ, Đồ kia rớt xuống súng hờ giựt dây.
Nổ lên một tiếng vang vầy, Châu-thành bốn phía sum vầy giấc trưa.
Vườn-thú cao thấp nhặt thưa, Cỏ cây các món vừa vừa sum sê.
Thượng cầm hạ thú bộn bề, Côn trùng lân giáp kiếm về nhốt nuôi.
Khi nào thừa hứng chơi vui, Quan dân tới đó cũng nguôi phiền tình.
Một tòa Đề-đốc đại dinh, Trướng hùm nghiêm chĩnh chỗ thành nguơn nhung.
Hảng tàu hai sở rộng thông, Một sở nhà-rồng một sở Nam-vang.
Hảng bạc trữ hạc muôn vàng, Nhà máy Xóm-chiếu gạo tràng viễn phương.
Hảng xe-lữa-nhỏ hai đường, Một đường Chợ-lớn một đường Hanh-thông.
Bộ hành lên xuống cũng đông, Nhắm sau đây cũng thạnh sung như thường.
Hảng xe lữa lớn hai đường, Một đường Chợ-lớn một đường Mỷ-tho.
Thiếu chi các hảng buôn to, Vạn thiên ức triệu cơ đồ kinh dinh.
Thiếu chi đường sá hiệu danh, Kể sao cho xiết linh tinh mọi bề.
Khá khen cho hảng bảo kê, Bảo thuyền bảo phố chĩnh ghê bảo người.
Công-ti tiệm biết mấy mươi, Hướng-đương nha-phiến nói cười xuê xan.
Cà-phe (café) bán các nẻo đường, Thuốc bao đỏ trắng xanh vàng lịch sang.
Máy nước phong-tên (fontaine) kỷ càng, Nắng thời xe nước tưới chang ướt dầm.
Chỗ coi các sở Kiểm-lâm, Giấy tờ sỗ sách mỗi năm liền liền.
Gỗ cây thiên vạng bạc tiền, Nam-kỳ lục-tĩnh mối giềng phân minh.
Phan-sa, quấc-ngữ nhựt-trình, Mỗi tuần in bán sự tình lăng xăng.
Gia-định-báo là công văn, Phát ra các hạt lệ hằng không sai.
Dọc ngang biết mấy lầu đài, Sở kia sở nọ kể hoài xiết đâu.
Phố phường cao thấp cạng sâu, Mặt tiền trong hẻm trước sau ở đầy.
Ước chừng hơn mười năm nay, Đờn bà nước chệc đỗi thay qua thường.
Bên Tàu lắm lúc nhiểu nhương, Dân đi các nước tiềm phương ăn làm.
Tách muôn ngàn dặm sang Nam, Đem thân bồ liểu lòng cam xa vời.
Sài-gòn Chợ-lớn hai nơi, Chệc trai với xẩm thảnh thơi ở trường.
Thói hay cúng đốt đèn hương, Tam nguơn tứ quí kỳ nhương liền liền.
Đoan-dương, trùng-cữu thường niên. Đêm khi khất-xảo ngày miền thanh-minh.
Trung-thu, Đông-chí rập rình, Lể kia lể nọ hậu tình biết bao.
Người sanh bất luận nước nào, Cũng đều phong tục tập vào thói quen.
Tấm lòng thành kĩnh khá khen, Lựa là giàu khó sang hèn mà chi.
Bến-thành chợ rộng tứ vi, Mấy cữa hàng xén ở thì luôn năm.
Chỗ ăn chỗ bán chỗ nằm, Ba-tăng (Patente) tiền thuế bạc trăm không cầu.
Ngoài thời cà mướp cau trầu, Chuối dưa măng mít bông rau cải hành,
Bắp khoai cam quít ớt chanh, Gà giò vịt đẻ cu xanh tôm càng.
Bành trái biết mấy chục hàng, Bò heo thớt thịt nhẩy tràng dọc ngang.
Cua gạch cu con ra ràng, Gà lộn trái vải rượu càng ngon xa.
Mấm nêm, mấm ruốt, khô tra, Tàn-ô, xà lách, bạt hà tía tô.
Bí rợ nấu với dừa khô, Măng le mấm ruốt vật mô sánh bằng.

Canh bầu nấu cá trê ăn, Cá rô củ cải tánh hằng ưa nhau.
Le le, chàn nghịch, ốc cau, Gà rừng, mỏ nhát, bò câu, áo dà
Se sẻ, ba kiến, đa đa, Trong các món ấy đều là tên chim.
Cá thời sủ, vượt, đối, chìm, Chét, hanh, phèn, bống, liềm kiềm, lưỡi trâu.
Ốc len, sò huyết, vọp hàu, Hến, ngao, trai, vẹm, kể hầu xiết đâu.
Xoài chua. mấm ruốt chung nhau, Với đào lộn hột ăn lâu không nhàm.
Ăn rồi nóng nải đa đàm, Đờn bà bỗn tánh lại cam thích dùng.
Sài-gòn thứ nhứt chợ sung, Nói sao cho hết điệp trùng hiệu danh.
Thiệt là một chỗ thị thành, Món ăn đồ bận cãi canh hoài hoài.
Gái ham sắc trai ham tài, Trai tài gái sắc sắc tài đều xinh.
Bao nhiêu vật giá trọng khinh, Thách cao mà bán bình bình chẳng cao.
Thầy bói gõ qui lao xao, Mỗi quẻ mỗi cắt nói phào cũng xong.
Thầy thuốc đờn bà đờn ông, Cao, đơn, huờn, tán, lắm công sấp bày.
Mấy đứa nói thơ cũng hay, Nói hoài nói hủy nghe rày như điên.
Chà và ngồi đỗi bạc tiền, Hai ba bốn chỗ liền liền buỗi mai.
Thường thì chợ sớm không sai, Lính tuần đi xét các loài cá ương.
Nhà dài mấy nóc đông thường, Ngoài thời ngồi chậc cả đường tràng khan.
Khá khen mấy chú dọn bàn, Tiếng tây học nói rỏ ràng quá lanh.
Nấu ăn nhiều kẻ có danh, Càng ngày càng khéo càng sanh trí mầu.
Thợ xe máy, cũng cơ cầu, Thấy thời bắc chước lậu lâu nghiệp thành.
Sài-gòn bốn phía châu thành, Bá công kị nghệ xanh quanh đông dầy.
Làm ăn không nới chưn tây, Kể hết ra rày vạn vạn thiên thiên.
Mổi người mỗi tháng có tiền, Kẻ nhiều kẻ ít lộc riêng vửng bền.
Gạo ba thắc, nước phon tên, Quán cơm quán rượu hai bên sẳng sàng.
Sở nào sở nấy nhẩy tràng, Gần đâu mua đó đồ đoàn thường xuyên.
Sang giàu thi sướng như tiên, Lên xe xuống ngựa bạn hiền vãn lai.
Nghèo thì có nghiệp sanh nhai, Ngày làm tối ngủ nằm dài thảnh thơi.
Những trang con gái các nơi, Đem thân lưu lạc về chơi Sài-gòn.
Tiếng tây tập nói cũng dòn, Sửa dồi nhan sắc phấn son sạch đời.
Chị em bạn tác khuyên mời, Lâu lâu xem cũng thành người lịch sang.
Người Hãi-nam ở dọn bàn, Tập khôn tập khéo nhà hàng đã lâu.
Rủ nhau ra mướn phố lầu, Làm nhà hàng nhỏ bán hầu cơm tây.
Sài-gòn danh nhứt đời nay, Sông sâu trăm trượng chánh ngay phía tiền.
Bực sông cẩn đá khuôn viên, Hư đâu sửa đó liên liên tu bồi.
Chi nhường kinh-quốc chổ vua, Nhơn dân đô hội tư mùa lịch xinh.
Thường ngày qua lại người Thanh, Tại tòa Tân-đáo xét trình luôn luôn.
Tục hay đờn địch giải buồn, Cúng cơm đãi tiệc thơ tuồng xướng ca.
Kim, tranh, bài bản rập hòa, Thanh tao nhả hứng miệng ca tay đờn.
Tốt thay mấy ả giai-nhơn, Tay vàng tay ngọc ngón đờn quá xinh.
Xe mui chiều thả xanh quanh, Đôi vòng Bà-chiểu thích tình vào ra.
Bánh mì các tiệm gần xa, Thơm ngon khí vị đều là khéo khôn.
Một mình Phước-thái tiếng dồn, Thường khi trước cữa dập dồn người ta.

Chùa Ông-bổn xóm Bà-ba, Tên Phụng-sơn-tự hội mà quá sung.
Bên đờn bà, bên đờn ông, Mỗi năm đáo lệ nhóm chung bạc tiền.
Xướng ca tế cúng liền liền, Bạn Nam bạn Quản hát liên đêm ngày.
Xả-tri các hảng cho vay, Ơ bên Ấn-độ đông tây các miền.
Tách ngàn qua cỏi nam thiên, Dinh thương phóng trái mối giềng gầy nên.
Cất ra phố xá vửng bền, Mua chợ mua đất kẹo lền đầy ngay.
Lớp thời bán vãi cho vay, Lớp thời làm việc đều nay chà-và.
Cũng là chung một tiếng Chà, Cã trong Ấn-độ vậy mà khác nhau.
Một Chà xã-tri khá giàu, Bạc muôn bạc vẹo chẳng cầu sức ai.
An-nam các-chú gạt hoài, Tính vắng tính dài tham có ích chi.
Cất chùa kĩnh phụng từ bi, Mổi năm chưng cộ Phật đi một lần.
Ba bốn chổ nữa cũng gần, Làm chùa thờ Phật riêng phần sữa trau.
Bến-nghé sông rất rộng sâu, Đặt tên Bến-nghé bởi đâu mà rằng.
Nguyên xưa rậm rạp còn rừng, Trâu thường dằm tắm hoặc chừng nghé kêu.
Ngày nay phong cảnh tốt đều, Tàu ghe lớn nhỏ đậu bèo hai bên.
Đò dọc rước mối xuống lên, Giành nhau xâu xé vang rên cã ngày.
Ghe bầu sắp lớp đậu ngay, Trong cầu Khánh-hội nối dài đỏi dây
Cầu-mống khen ai khéo xây, Mấy năm trải đã mấy rày xuân quan.
Có ba sở hảng cũng sang, Nghiệp làm đồ sắt ở ngang đầu cầu.
Chuyên nghề sữa máy đóng tàu, Lại đi chịu giá chợ cầu các nơi.
Xứ xa tàu mới tới nơi, Hư đâu mướn sữa thãnh thơi lẹ làng.
Các loài kẻm sắt đồng gan, Máy kia máy nọ nhẩy tràng biết bao.
Thường nghe đập sắt ào ào, An-nam các-chú ra vào tiếng vang.
Cột cờ Thủ-ngữ nghiêm trang, Có nhà đánh thuế hóa hàng bán buôn.
Xe lữa nhỏ đi luôn tuồng, Chổ người đông đảo rung chuông liền liền.
Chạy dài theo mé giang biên, Tới chợ Ông-lảnh phố liên ra vào,
Công-ty heo thường ào ào, Buổi khuya buổi xế biềt bao heo bò.
Cũng là sanh lý cơ đồ, Cã năm sát hại kể mô xiết ngàn.
Khỏi bót lên ngay Cầu-quan, Bên phía tay hữu luôn hàng thanh-lâu.
Nhựt-bỗn điếm đều ở lầu, Trướng phòng sạch sẻ rước hầu khách sang.
An-nam phố thấp ở tràng, Tối ra kéo niếu dọc ngang cùng đường.
Nực cười trêu phĩnh phấn hương, Biết ai là chắc cữu trường ái ân.
Lục-xi tuần lể hai lần, Đỉ nào cũng vậy sợ chừng bịnh đau.
Phía đường trước cữa Kho-dầu, Có hai rạp hát hai đầu la vang.
Thường đêm hát lấy tiền giàng, Mà đêm thứ bảy nhẩy tràng người ta.
Chùa Ông-thánh mới lập ra, Đất linh phải chổ nay đà thạnh sung.
Thái-hưng nội hội rất đông, Quan viên chức sắc đứng trong bộn bàn.
Thái-bình nguyên trước là làng, Đình-thần có sắt Thành-hoàng vua phong.
Sao dời vật đổi mấy đông, Hóa ra một chổ thuộc trong Châu-thành.
Chủ-hội tên là quãn Bành, Gốc con ông chủ Thái-bình làng xưa.
Mối giềng còn lại dây dưa, Nhờ người lòng tốt đẹp vừa với nhau.
Đồng tâm hiệp lực lo âu, Nay thành qui củ bền lâu vững vàng.

Tốt thay một xóm Cầu-qùan, Ăn chơi đờn địch lịch sang nhiều nhà.
Chợ-đủi sung túc cữa nhà, Có cảnh Chùa-bà tuy nhỏ mà linh.
Chổ chợ nhỏ coi cũng xinh, Nhóm năm bảy chục bình bình thường đông.
Kề bên đất-thánh nên sung, mã ông Lái-gẫm chánh-trung một nền.
Ngàn thu chói tạc họ tên, Khuôn viên bồi đấp vững bền xanh quanh.
Công thần miểu trước anh linh, Nay làm một chỗ tập binh trú phòng.
Phía sau đất trống minh mông, Xưa đồng Tập-trận rộng thông tư bề.
Mô súng dượt sáng thường lề, Trường đua thì để đấu về ngựa hay.
Kề bên gò đất cao đầy, Kêu rằng Mã-ngụy thuở nay tiếng cùng.
Minh-mạng thập lục niên trung, Phan-an thành hảm người trong hơn ngàn.
Nam phụ lảo ấu cả đoàn, Tội lây vạ tràng vua chẳng thứ dung.
Biền tru hạ chiếu ngai rồng, Thành trung tặc đảng chôn chung một hầm.
Giặc loàn chết đã cam tâm, Ruổi ro xích tữ lổi lầm vì đâu.
Hoan hồn ăn thảm uống sầu, Suối vàng lạnh lẻo ai cầu cho siêu.
Đời nay khôn quỉ quá nhiều, Tục ngữ bày đều mã-ngụy đầu thai.
Trớ trinh đặt để bởi ai, Tình cờ tiếng nói còn hoài đến nay.
Chợ-hộ phong cảnh tốt thay, Chùa Minh-sư lập tại rày ga-xe.
Trong chùa thanh khiết chỉnh tề, Ăn chay để tóc người mê Phật-đường.
Chùa Phù-châu ở bên đường, Tụng kinh viết sớ sãi thường thảnh thơi.
Cầu-bông địa cuộc thanh tươi, Có ông Phủ-Kiệt đương đời giàu sang.
Thuở kia cần khổ gian nan, Ở nơi đất Hộ mở mang tư bề.
Ngày nay đông đảo chỉnh tề, Tứ dân sanh lý nghiệp nghề thạnh sung.
Thẳng qua chợ mới rất đông, Ở ngoài Ba-xã vào trong quá nhiều.
Nghề chài nghề nhuộm mơi chiều, Đi buôn làm việc người đều thảnh thơi.
Nhà lầu thờ Đức-chúa-Trời, Tên kêu Tân-định thiệt nơi chỉnh tề.
Người trong họ, ở tư bề, Nhà in cha Thượng cất kề dựa bên.
Lập thành cơ chỉ vửng bền, Bán ra sách vỡ giúp nên các tràng.
Đinh-thái-Sơn người Nghệ-an, Gốc dòng khoa mụt rỏ ràng Trâm anh.
Vào Nam-kỳ thuở xuân xanh, Theo Lê-bá-Đảnh học hành lập thân.
Ai dè thời sự phân vân, Vào trường Tân-định tập dần công phu.
Bốn năm lao khổ cần cù, Học nghề đóng sách luyện tu nghiệp thành.
Rồi ra ở tại Bến-thành, Nhà Ô-gúc-Bốc (Auguste Bosc) tất tình làm công.
Mơi chiều phận sự vẹn xong, Mổi ngày hai cắt cũng không dạ phiền.
Lần hồi sau cũng khá tiền, Cám ơn nhạt-phụ đức hiền phối duyên.
Ăn chung mà lại làm riêng, ít nhiều thâu góp nhọc siêng tháng ngày.
Bày làm vốn nhỏ đầu tay, Năm trăm đồng bạc dựng gầy thiểu đa.
Dốc lòng bền chí trát ma, Nhờ ông Vỉnh-Ký ơn ra bão toàn.
Xin giùm đóng sách cho quan, Tại nơi kho sách bạc ngàn hóa sanh.
Ngày nay phấn phát thân danh, Vợ con sung túc lập thành qui mô.
Lưu truyền vỉnh viển cơ đồ, Cội cây nguồn nước dám mô quên nghì.
Hiệu đề Phát-Toán một khi, Đem tên cha vợ tạt ghi để đời.
Cho người hay biết nơi nơi, Băn thanh ngọc nhuận rạng ngời gia thinh.

恭贈安南印書堂主人丁泰山責台七言詩云 
有志欣君自擔當立成机器印書堂 
百般經始開生面諸轄菅謀集利場 
在我權衡昌事業新民視咱售文章 
啇途日進光明㸃従此南州並富強 
又恭贈著南圻書主人阮蓮𡶶先生五言詩云 
平定多英俊阮蓮𡶶逸才壯行司馬操老練歐陽懷 
筆墨留千古声名桭九垓四通還八達告往可知來 
右美萩地轄會同阮賽亮敬題以誌 

Hai tòa đất Thánh minh minh, Tứ vi xây đấp vách thành vọi cao.
Bốn mùa gió thổi rao rao, Linh hồn người chết thoản vào thoản ra.
Miễu chùa hội quán của ta, An-nam các-chú vậy mà biết bao.
Rủ nhau tiền bạc cúng vào, Thiện nam tính nử mặt nào chẳng ưng.
Gặp cơn trong hội không chừng, Người nào đau chết cơ bần rủi ro.
Của chung tình thảo xúm lo, Lể nghi tống táng chẳng cho đơn hèn.
Thiệt là trung hậu khá khen, Tập nhau chuyện tốt tục bèn thuần lương.
Đồ âm-công các ngã đường, Mấy người đầu-nậu đã thường sắm ra.
Thành phố hèn sang các nhà, Rủi khi tữ táng đâu đà sẳng nơi.

Ít nhiều tiền bạc theo đời, Có ba bốn hạng rước mời tùy nghi.
Đồ đoàn đủ hết y nguy, Lẹ mau công chuyện vậy thì như chơi.
Sài-gòn Chợ-lớn hai nơi, Coi trong tang lể tục đời rất xinh.
Dẫu ai nghèo khỗ một mình, Chúng bạn hết tình khi chết giúp nhau.
Nhà vàng giá triệu trước sau, Kẻ đa người thiểu nhóm nhau đưa đường.
Tục hay cờ bạc thường thường, Bài cào thứ nhứt các đường hẻm co.
Ăn thua chẳng kễ khốn nghèo, Xóm nào xóm nấy đánh theo chặn nhà.
Bất kỳ bé lớn trẻ già, Đờn ông đờn bà đạp tới thời mê.
Nhì là sá hỏ với me, Phá hấu, tứ sắt, các tê, dập dều.
Thói hay bắt chước nhau đều, Mấy năm nay cả sắm nhiều vàng đeo.
Bông kiền trăm chuỗi xuyến neo, Chậc tay chậc cỗ thêm đeo hột xoàn,
Càng ngày càng mắc giá vàng, Tiền công thợ bạc quá ngàn quá muôn,
Bày ra kiễu cách rập khuôn, Lâu lâu lại có luôn luôn mới hoài.
Đua nhau trang sức dồi mài, Cá chìm sóng sắc trai tài ngã xiêu.
Mây mưa một trận ấp yêu, Ngàn vàng không tiếc mua liều thú chơi.
Sài-gòn Chợ-lớn lịch đời, Vàng đeo dẩy cỗ xoàn ngời hai tay.
Chà-và có vận cho vay, Tịch nhà lấy đất giấy đầy chật rương.
Ngậm nguồi cái cuộc tan thương, Nhơn tâm thế biến lẻ thường sữ nhiên.
Coi qua một chuyện nhãn tiền, Thì kia các chuyện biết liền đâu sai.
Châu-thành du đãng trong ngoài, Lập phe lập lủ tranh tài với nhau.
Bồn-kèn, đường-mới đâu đâu, Củ chì tay sắc đứng đầu là hơn.
Nghiêm hình trọng phạt chi sờn, Miểng cho trã oán rữa hờn mới cam.
Thói dân như vậy sao kham, Dần dần xin phải trước làm răng he.
Từ khi chánh-soái Đu-Me (Doumer), Đông-dương các việc thêm bề sữa sang.
Sài-gòn đến ải môn quan, Hỏa xa thiết lộ sắm toan khởi hành.
Phí bao ức triệu công trình, Khoan sông đào núi sữa bình đường đi.
Lần lần nay đã cữ thi, Từ Nam đến Bắc chờ khi cáo thành.
Lăng-Si (Blanchy) lấy lẻ công bình, Thương dân nghèo khỗ đem mình trở ngăn.
Rủi vừa xảy phát bịnh căng, Xuống làm địa hạ Tu-văn đã rồi.
Người than kẻ khóc ngậm ngùi, Tưởng xưa công đức sụt sùi nhớ trông.
Đu-Me (Doumer) công việc chưa xong, Ngài đà mảng hạng về trong xứ mình.
Các quan hội nghị Pháp-đình, Lựa người mẩn cán liêm thanh trọng thần.
Ông-Bô (Beau) đương nhặm Bắc-Kinh, Triều-đình điễn báo cữ hành chiêu chương.
Toàn-quyền-tổng-thống Đông-dương, Khâm-sai khổn ngoại phong cương điều đình.
Tàu ngài vừa tới châu-thành, Người ta chim ngưởng oai linh vang dầy.
Cầm cân nam bắc một tay, Đông-dương triệu chúng đều rày ngóng trông.
Nam-kỳ Thống-đốc một ông, Ro-dê (Rodier) đổi lại cũng trong chuyến nầy.
Minh lương hội ngộ sum vầy, Mưa nhơn khi rưới cả bầy dân đen.
Tánh dân mềm diệu khá khen, Tôn quân thân thượng thói quen roi còn.
Lịch xinh phong thổ Sài-gòn, Mấy thầy làm việc sắc son một lòng.
Trong ngoài xu sự phó công, Hai bên bổn phận thảy xong chuyện mình.
Đều là phấn phát thân danh, Nơi nơi giềng mối thừa hành chẳng sai.

Bề trên thạnh trị lâu dài, Thuộc liêu phận dưới đủ tài thảnh thơi.
Mỗi tuần chúa-nhựt nghỉ ngơi, Cầm kỳ thi tưởu nhóm chơi luận đàm.
Chữ nhu đờn địch vui ham, Vản lai xướng họa siêng làm rất hay.
Quân thân là ngởi cao dày, Phu thê huynh đệ bạn rày ngủ luân.
Cầu cho đều thảy thận cần, Trọn bề ngay thảo giữ thân nhơn nghì.
Chánh soái Lo-bu-côp-ki (Klobukowski), Đương kiêm hiện tại trấn thì Đông-dương.
Ngài hay độ lượng khoan hường, Thương dân Nam-việt xem dường cổ quăn.
Phải trang khâm mạng đại-thần, Mở lòng cha mẹ đoái phần tôi con.