Quốc văn trích diễm/69
VỢ KHUYÊN CHỒNG
Vợ chồng ta tơ hồng vấn-vít,
Nhân-duyên này bà nguyệt khéo xe.
Trình anh: thân thiếp vụng-về,
Yêu thì nên tốt chớ nề ngu-si.
Quản bao lỗi nọ lầm kia,
Chiều thanh vẻ quí dám bì được đâu.
Thiếp vâng lời dạy trước sau,
Nguyện xem then khóa giữ hầu áo khăn.
Trước là thờ phụng song thân,
Sớm thăm tối viếng ân-cần đỡ anh.
Bốn phương chàng hãy kinh-doanh,
Giùi mài kinh sử tập-tành cung tên.
Công-danh mong đợi ơn trên,
Còn trong trần-lụy hãy xin giấu mầu.
Gửi trình dễ dám khuyên đâu,
Sắc phòng thương thận, rượu bầu thương tâm.
Thiếp xin chàng chớ đam dâm,
Những nơi cờ bạc chớ ham làm gì.
Thế-gian lắm kẻ điên-mê,
Áo quần lam-lũ người thì như ma.
Thiếp xin chàng lánh cho xa,
Một niềm trung-hiếu để mà lập thân.
Bấy lâu những đợi long-vân,
Đào thơ liễu yếu gửi thân anh-hùng.
Xưa nay gái đội ơn chồng,
Hiển-vinh bõ lúc cơm sung cháo giền.
Ơn trời công đã được đền,
Chàng nên quan cả, thiếp nên hầu bà.
CÂU HỎI. — I. Ý tưởng. — Chia bài này ra từng đoạn và tóm tắt đại ý mỗi đoạn. — Người vợ xin nhận những chức-trách gì và khuyên chồng những điều gì?
II. Lời văn. — Tơ hồng: nghĩa đen, nghĩa bóng. — Bà nguyệt: nói rõ cái điển về chữ ấy. — Nề: nghĩa là gì? — Kinh doanh: nghĩa. — Giùi mài kinh-sử: cắt nghĩa mấy chữ ấy — Cắt nghĩa câu thứ 14. — Sắc-phòng: nghĩa. — Lam-lũ: nghĩa là gì? — Long vân: nghĩa đen, nghĩa bóng. — Đào-thơ liễu yếu: ý nói gì?