Tây sương ký/Phần II/Chương II

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

Một cảnh: Trong ngoài phòng sách.

CẬU TRƯƠNG - (ra) Hôm qua bà lớn bảo sai con Hồng sang mời tôi. Trời chưa sáng, tôi đã dậy ngồi chờ! Mà mãi đến bây giờ sao chửa thấy sang? Ối Hồng ôi là Hồng ôi!

CON HỒNG - (ra) Nói một mình: Bà lớn sai sang mời cậu Trương, mình phải đi sớm một chút mới được!

Đùng đùng gió cuốn mây tàn,
Năm nghìn quân giặc phá tan trong nửa giờ!
Cả nhà cầm chết có thừa,
Cứu cho sống lại ơn nhờ cậu Trương!
Tấm riêng giờ đã nhẹ nhàng,
Con người thật đáng hoa hương phụng thờ!
Duyên xưa lỡ dở ai ngờ
Chỉ vì có một mảnh tờ mà xong!
Then mây mở rộng gác Đông,
Bóng trăng thôi khỏi đợi suốt đêm ròng bên dưới Mái Tây!
Lạnh lùng chăn mỏng gối mây,
Có người nằm ấm từ rày trở đi!
Đỉnh trầm khói tỏa bốn bề.
Mành thêu nhẹ gió, song the vắng người...

Này đã đến viện sách rồi đây!

Rêu xanh lấp lánh sương rơi;
Lối đi vắng vẻ nào ai ra vào?
Buột mồm tôi dặng trước song đào...

CẬU TRƯƠNG - Ai đấy?

CON HỒNG - Em đây! (Cậu Trương mở cửa, đôi bên chào nhau)

Cửa mở ra miệng hỏi đốc hồi!
Chắp tay vái rối-tứ-cửa, làm tôi cũng chẳng kịp chào!
Giầy vàng, đai bạc xinh sao!
Mũ sa đen láy! Áo bào trắng bong!
Áo quần tề chỉnh đã xong,
Khôi ngô, rạng rỡ, mặt trông càng tình!
Thảo nào chết mệt cô Oanh!
Kể tài, kể nết, cứng là lòng mình cũng phải xiêu!

Thưa cậu, bà lớn sai em...

CẬU TRƯƠNG - Vâng! Vâng! Tôi xin sang ngay!

CON HỒNG:

Chính mình còn chưa kịp mời,
Thế mà gọn lỏi nhận nhời thật nhanh!
Dễ sắp bay đến tận cô Oanh,
Mà vâng vâng, dạ dạ, mình mình, tôi tôi!
Giống học trò, nghe nói đến mời,
Là như được lệnh tướng sai ra trận tiền!
Thần khẩu ta đứng dậy trước tiên,
Khoa đao, thắng ngựa, vâng xin đi đầu!

CẬU TRƯƠNG - Chị Hồng, tôi hỏi chị: tiệc này là tiệc gì? Có khách nào nữa không?

CON HỒNG:

Tiệc này là tiệc trong nhà,
Trước là mừng mặt, sau là tạ ân!
Phố phường không gọi đến ăn;
Sư mô không thỉnh, quen thân không mời;
Chỉ đón riêng quý khách sang chơi,
Cùng cô Oanh sớm lứa đôi phỉ nguyền!
Thấy "vâng! vâng!" tưởng đã đi liền,
Còn quay trở lại ghé nhìn vào gương!
Giống học trò kiết đến tận xương,
Lại càng làm đỏm làm sang mười phần!
Có cái đầu chải lại mấy lần!
Con ruồi đậu khéo trượt chân bỏ đời!
Choáng lắm rồi! Hoa cả mắt tôi!
Trái chua như thế khiến người ghê răng!
Chải chuốt xong, lại thấy khom lưng,
Khóa ba lẻ gạo! Đậy lưng lọ cà!
Con người như thế, thế mà
Việc to, việc nhỏ đều là tinh quân!
Phải như phường chỉ biết ăn,
Làm mười việc chẳng nên thân cả mười!
Vô tình như cây cỏ trong đời,
Cũng còn có lúc hoa đôi cành liền!
Nữa là các bạn thiếu niên,
Tránh sao cho khỏi ngã trên đường tình!
Thông minh, trắng trẻo trời sinh,
Đến đêm bắt ngủ một mình, tội chưa!
Nghe đồn từ thủa ngày xưa,
Có tay tài tử say sưa vì tình,
Yêu người, người chẳng yêu mình,
Thành ra chịu thiệt thông minh một đời!
Mảnh tình chung chuyên nhất không hai,
Đêm nay ân ái, cô thời chứng cho.
Nhưng đào tơ liễu yếu như cô,
Đã đâu quen được những trò trăng hoa!
Cậu nên gượng nhẹ kẻo mà...
Nhưng đèn khuya chung bóng, trăng tà sánh vai,
Nhìn con người đẹp chết người,
Khoanh tay mà ngắm của trời được đâu!

CẬU TRƯƠNG - Chị Hồng! Hôm nay bên nhà bày biện ra sao? Tôi sang sợ đường đột không tiện!

CON HỒNG:

Bên nhà em: Cánh hoa đỏ rực thềm ngoài,
Ngày lành gặp lúc cảnh trời vừa xinh.
Bà dặn em chớ có trùng trình,
Cậu cũng đừng mượn cớ chối quanh nữa mà!
Này, chính giữa buông một cỗ màn là,
Thuê đôi uyên đứng dưới trăng tà song song!
Hai bên dàn hai dãy bình phong,
Chạm đàn công múa gió Đông dịu dàng,
Dưới thì sênh ngọc phách vàng
Đàn loan, sáo phượng, đợi cậu sang là cử nhạc mừng!

CẬU TRƯƠNG - Chị Hồng! Giữa đường gặp gỡ, tôi không sẵn đồng tiền, đồng lễ nào cả, sao tiện sang hầu bà lớn?

CON HỒNG:

Cậu cứ sang làm lễ thành thân.
Trời xe đôi lứa, ai cần tiền nong!
Cậu coi thực đáng tấm chồng!
Cô em sao khỏi nóng lòng khát khao!
Trăm năm, duyên khéo may sao;
Một đồng lễ chẳng tốn vào bản thân!
Nhưng có lẽ lễ nào mà đọ được cân -
Với công cầu tướng, xin quân vừa rồi!
Cô em trọng cậu vì tài,
Một mình mà kể hơn mười vạn binh!
Văn chương nào đời dám coi khinh,
Là phong, gấm rủ, cũng cốt ở đèn xanh quyển vàng!
Tiệc bày chỉ đợi cậu sang,
Bà sai em phải vội vàng đi nhanh,
Cậu đây chỉ có một mình!
Bên nhà cũng chỉ quanh quanh người nhà!
Thật là tĩnh mạc, vui hòa!
Xin cùng đi tiện thể, chớ nề hà nữa chi!

CẬU TRƯƠNG - Nếu vậy, chị cứ về trước, tôi xin sang theo ngay!

CON HỒNG:

Bà đà có ý trông mong,
Cậu đừng làm gái, vui lòng sang chơi!
"Lễ phép nào bằng sự vâng lời!"
Đừng phiền Hồng phải sang mời đến lượt thứ hai!

CẬU TRƯƠNG - (vào) Hồng nó về rồi! Tôi đóng cửa phòng sách lại đã! Sang bên bà lớn, bà lớn bảo: kìa cậu Trương đã sang. Lại đây ngồi đôi với Oanh Oanh nhà tôi, uống vài tuần rượu, rồi vào làm lễ động phòng. (cười) Tôn Phi Hổ ơi! Bác thực là đại ân nhân của tôi. Tội nghiệp cho bác! Để rồi đây thong thả, tôi sẽ bỏ ra vạn quan tiền, nhờ sư Bản làm chay siêu độ cho bác mới được.

Mây sớm tạ riêng lòng Hổ tướng!
Mưa ơn nhờ cả lượng Long thiêng!

Lời phê bình cả chương[sửa]

Tôi đọc các du ký ở thế gian, mà biết đời thật không có ai biết chơi. Người biết chơi, đối với hết thảy những cảnh sông, biển, núi non, động thiên, phúc địa, ở trong đời, cố nhiên không ngại nghìn dặm, muôn dặm, sao cũng tìm đến để thăm cho hết cảnh lạ. Thế nhưng trong lòng có một tài tình riêng, dưới mi có một cặp mắt riêng, thì có cứ gì phải đến hẳn những cảnh sông, biển, núi non, động thiên, phúc địa, bấy giờ mới nói rằng: Tôi đã được thăm những cảnh lạ. Nơi động thiên mà ta đến thăm hôm qua, ta phải tốn sức chân, sức mắt, sức lòng trong bao nhiêu ngày, bấy giờ mới xong chuyện... Đến ngày mai, ta lại sắp đến thăm một nơi phúc địa; ta lại phải tốn sức chân, sức mắt, sức lòng trong bao nhiêu ngày, để theo đuổi vào đấy. Kẻ đứng ngoài không hiểu đầu cuối làm sao, tất phải khen: Luôn mấy hôm đi chơi thật sướng nhé! Vừa qua một động thiên, lại tới một phúc địa! Có biết đâu trong lòng nhà thầy nào có nghĩ thế đâu! Kể từ khi vừa lìa nơi động thiên trước mà chửa tới nơi phúc địa sau, giữa khoảng đó dù không nhiều, chỉ cách nhau độ vài, ba mươi dặm; hay ít nữa, chỉ độ tám, bảy, sáu, năm, bốn, ba, hai dặm; hay lại ít nữa chỉ độ một dặm, nửa dặm … thế nhưng nhà thầy đối với một dặm, nửa dặm ấy, cái gọi là tài tình riêng ở trong lòng, cặp mắt riêng ở dưới my, có phải không đem cách nhìn nhận các động thiên, phúc địa mà nhìn nhận nó đâu! Nay lấy cái bản lĩnh lớn, cái thông minh lớn, cái khí lực lớn của thợ tạo, bỗng dưng bày ra một cảnh động thiên, một cảnh phúc địa, thì đó thật là những cái lạ tai, lạ mắt, chả cần phải nói nhiều! Thế nhưng ta thường nhìn kỹ trong khoảng trời đất, lặt vặt một con chim, một con cá, một bông hoa, một ngọn cỏ, cho đến một cái lông chim, một cái vẩy cá, một cái cánh hoa, một cái lá cỏ, chả có cái gì là không phải tốn đến cái bản lĩnh lớn, cái thông minh lớn, cái khí lực lớn của ông thợ Tạo kia, mà gây dựng được nên! Tục ngữ có nói: "giống sư tử vật voi cũng dùng hết sức mà vật thỏ cũng dùng hết sức!" Ông thợ Tạo kia cũng thế: Sinh ra động thiên, phúc địa cũng phải dùng hết sức; mà sinh ra lặt vặt một con chim, một con cá, một bông hoa, một ngọn cỏ, cho đến một cái lông, một cái vẩy, một cái cánh, một cái lá cũng là phải dùng hết sức!... Cứ thế mà suy, thì những chuyện lạ tai, lạ mắt ở trong đời, có cứ gì phải đến những nơi động thiên, phúc địa mới có. Mà những nơi gọi là động thiên, phúc địa kia, thì lại gây dựng nên bằng cách thế nào? Trang Tử có nói: "Chỉ riêng các phần thân thể con ngựa thì đó không phải là con ngựa, mà con ngựa là cái trước kia còn gồm cả các phần thân thể của con ngựa… Xem trong miếu lớn, phải kể trăm cây... Xét núi lớn, gỗ, đá đều loạt..." Chúng ta đây, nên biết trăm cây, nghìn đá, lẫn lộn đều loạt, như thế là miễu lớn, núi lớn, thì họa chăng mới là biết chơi! Kìa như đỉnh cao, kẽm chẵm, cái chót vót ấy là góp đá mà thành ra; ghềnh dốc, thác treo, cái rầm rộ ấy là góp suối mà gây nên… Nếu xét từng viên đá một thì có lẽ cũng không khác gì hòn cuội con! Nếu tìm từng dòng suối một thì có lẽ cũng không khác gì lạch nước nhỏ! Chẳng những thế mà thôi. Lão Tử có dạy rằng: "Ba chục rẻ cùng một bánh, dùng tạm khi không có xe; đắp đất làm vách, đục lỗ làm cửa, ở tạm khi không có nhà..." Như vậy thì các cảnh động thiên, phúc địa, gồm có bao nhiêu những nơi trông dọc thành ngọn, trông ngang thành dẫy, trông lên thành vách, trông xuống thành khe; cùng là chỗ phẳng là nền, chỗ lệch là sườn, chỗ hẹp là kẽm, chỗ ngang là đập; tuy rằng xinh xẻo lạ lùng, không thể nào mà nói cho xiết; thế nhưng ta thì ta có thể biết sở dĩ xinh đẹp lạ lùng như thế, chỉ là vì nó ở đúng vào chỗ "Khi không có"... Vì rằng khi đã không có, thì nào làm gì có ngọn, có dẫy, có vách, có khe, có nền, có sườn, có kẽm, có đập!... Vậy mà cái chỗ khi không có ấy, thì chính là chỗ để cho tài tình riêng ở trong lòng ta được bay lượn; cặp mắt riêng ở dưới my ta được nhởn nhơ... Trong lòng ta đã có một tài tình riêng, dưới my ta đã có một cặp mắt riêng, hễ chỗ nào không có, ta lại đem ra mà bay lượn nhởn nhơ, thì nào có cứ gì phải tìm đến những nơi động thiên, phúc địa. Như trên kia đã nói, trong khoảng vừa dời cảnh trước, chưa có cảnh sau, ít ra là vài, ba mươi dặm, trong khoảng đó, chỗ nào mà chả có những nơi mà ta gọi là "khi không có". Một dịp cầu cheo leo, một gốc cây cằn cỗi, một làn nước, một cái làng, một bức dậu, một con chó, ta bay lượn chơi, ta nhởn nhơ chơi; thẻ so với những cảnh động thiên, phúc địa, đã chắc gì cái lạ, cái đẹp lạ chả không ở những cảnh ấy, mà ở những cảnh này? Vả chăng, ta cũng bất tất phải trong lòng thật có cái tài riêng, dưới my thật có cặp mắt riêng. Nếu bảo phải có tài tình đã, rồi hãy bay lượn; phải có cặp mắt riêng đã, rồi hãy nhởn nhơ; như vậy thì hạng người biết chơi, có đến mấy mươi đời cũng không gặp một! Theo ý Thánh Thán thì ở đời cứ gì phải tài tình riêng, chịu khó bay lượn, thế là có tài tình riêng! Cứ gì có cặp mắt riêng, chịu khó nhởn nhơ, thế tức là có cặp mắt riêng. Ông lão họ Mễ xem đá có nói rằng: "Cần xinh! Cần nhăn! Cần thủng! Cần gầy!" Nay dịp cầu, gốc cây, làn nước, cái làng, bức dậu, con chó ở trong một dặm, nửa dặm kia, đều là những cái rất xinh, rất nhăn, rất thủng, rất gầy cả đấy! Ta không có con mắt xem đá của ông lão họ Mễ đó thôi. Nếu quả nhiên nhìn thấy cái xinh, cái nhăn, cái thủng, cái gầy, là ở cả đó, thì dù là chẳng muốn bay lượn, nhởn nhơ vào đó sao được. Vả chăng những ngọn, những dẫy, những vách, những khe, những nền, những sườn, những kẽm, những đập ở nơi động thiên, phúc địa kia, đã chắc gì là đẹp, là lạ cho lắm! Chẳng qua cũng là có xinh, có nhăn, có thủng, có gầy đó thôi! Cứ thế mà coi, nếu ta cứ phải động thiên, phúc địa mới chơi, thì những nơi ta bỏ sót không chơi, có lẽ đã nhiều lắm. Thế mà, cứ phải đến động thiên, phúc địa mới chơi, thì ngay những cảnh động thiên, phúc địa đó cũng là không biết chơi mà thôi! Vì sao? Họ đã không nhận được vẻ đẹp, vẻ lạ của bức dậu, một con chó, thì dù có trông thấy những cảnh động thiên, phúc địa nữa, cũng chỉ biết được những cái không đẹp không lạ mà thôi! Đó là những lời mà hồi xưa Thánh Thán bàn với Trác Sơn về chuyện đi chơi. Nay đọc đến chương con Hồng mời tiệc trong vở Mái Tây, bất giác lại buột mồm nhắc tới...

(Trác Sơn nói: Xưa nay chỉ có cụ Thánh Khổng là tay biết chơi! Thứ nữa thì đến Vương Hy Chi … Có người hỏi tại sao? Trác Sơn đáp: Cụ Khổng thì tôi cảm nhất về câu: "Cơm kỹ càng hay! Gói nhỏ càng tốt!" Còn Hy Chi thì tôi thấy bao nhiêu bức thiếp mà Hiến Chi đều chịu không bắt chước được một nét nào! Thánh Thán nói: Bác nói vậy thì người thiên hạ phải nghi hoặc mà chết mất! - Trác Sơn lại nói: Vương Hy Chi khi rỗi tất ra sân lần từng cánh hoa, từng bông hoa, đếm kỹ từng cánh một! Học trò cầm khăn đứng hầu, có khi suốt ngày không thấy nói câu gì! Thánh Thán hỏi: Chuyện đó chép ở sách nào? Trác Sơn nói: Cứ gì ở sách nào! Nhưng tôi biết thế! Ấy, tính tình Trác Sơn lạ lùng là thế, tiếc thay các bạn không được gặp Trác Sơn!)

Trên đây là chuyện phá giặc, một chương lớn, dưới đây là chuyện "lật hẹn", cũng một chương lớn. Trong chuyện phá giặc thì có Oanh Oanh nghĩ kế, Huệ Minh đưa thư, đều là những lớp sóng cả, gió cao, tự nhiên phải có. Trong chuyện "lật hẹn" thì có Oanh Oanh thất kinh, cậu Trương nổi đóa, cũng đều là những trận khóc to, cười lớn, tự nhiên phải có. Nay vào khoảng sau câu chuyện phá giặc; trước chuyện "lật hẹn", làm thế nào cho ra một chương? Tác giả nghĩ kỹ một lúc lâu, rồi nghĩ đến rằng: Kìa như cậu Trương đối với Oanh Oanh, thiết tha xoắn xuýt, chỉ mong những gặp rầy, gặp mai, cái đó chả cần phải nói... Mà cho đến Oanh Oanh đối với cậu Trương nữa, cái nông nỗi thiết tha xoắn xuýt, chỉ mong những gặp rầy, gặp mai đó, có phải một lời nói được hết, một bút tả xiết được đâu? Tự nhiên mà có Tôn Phi Hổ đến! Tự nhiên mà được bà lớn hứa lời... Hai cái tự nhiên lừ lừ tự trên trời xa xuống!... Trong lúc ấy, ở một đôi người ngọc kia, nào đầu tim, đầu lưỡi, nào trong mắt, trong mộng, nào khi ăn khi uống, sao cho khỏi có những cái phảng phất như mây, nóng ran như lửa, sục sạo như giặc, thao thức như xuân? Vậy mà nay, ở chương trên, chuyện phá giặc vừa xong; xuống chương dưới, chuyện lật hẹn kế đến. Trong chương phá giặc đã không có thì giờ để ví đôi người ngọc kia, mà tả cái tâm sự như mây, như lửa, như giặc, như xuân ấy! Thế mà trong chương lật hẹn, lại có thể có thì giờ để ví đôi người ngọc ấy mà tả cái tâm sự như mây, như lửa, như giặc, như xuân đó sao? Nghìn lần cực chẳng đã! Muôn lần cực chẳng đã! Mới tính đến rằng lật hẹn tất phải đặt tiệc, đặt tiệc tất phải cho mời, nhân đó mà len vào giữa hai chương, bỗng thong thả tả một chuyện con Hồng mời tiệc. Cũng không cần đến cậu Trương, cũng không cần đến Oanh Oanh, chỉ thong thả mượn miệng người đứng ngoài, mà vừa hay tả hết được bao nhiêu những tâm sự phảng phất, bồn chồn, sục sạo, thao thức cả đôi bên! Chao ôi! Thế mới thật là: vua Nữ Oa không ngại việc vá trời, chỉ ngại việc tìm đá ngũ sắc! Nay đã là tay chuyên môn về việc đá ngũ sắc, thì có trời nào không vá nổi đâu!

Thế nhưng Thánh Thán lại nghĩ kỹ lại: Trước đây là chuyện phá giặc, chuyện đó thực đáng là một chương lớn. Sau đây là chương lật hẹn, chuyện đó cũng đáng là một chương lớn. nay con Hồng vâng mệnh bà lớn, chạy sang mời khách dự tiệc, thì thật là một chuyện rất nhỏ, rất nhạt, rất vô vị, rất ơ hờ! Vậy mà coi tác giả cứ thong thả thuận bút tả đi, cũng thành ra được một chương lớn! Thế thì như trên đã nói: một làn nước, một cái làng, một dịp cầu, một gốc cây, một bức dậu, một con chó, không có gì là không có vẻ lạ, vẻ đẹp; vừa xinh, vừa nhăn, vừa thủng, vừa gầy..., bất tất phải đến những nơi động thiên, phúc địa, mới tìm thấy cái lạ, cái đẹp; chẳng cũng thật thế sao? Hết thảy các bạn tài tử gấm vóc trong đời, khi sắp học nghề viết văn, xin hãy nhớ kỹ câu nói "khi không có" của Lão Tử! (Trước chuyện lật hẹn, sau chuyện phá giặc, tôi đã nghĩ kỹ, khó lòng mà viết xen vào được một chương. Vì vậy mà phải chịu chương mời tiệc này là hay tuyệt!)