Tản Đà tùng văn/Lòng thương sót

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Tản Đà tùng văn của Tản Đà
Lòng thương sót

Lòng thương sót.

Lòng người ta, quảng-đại nhất là gì? có khi là tấm lòng thương-sót. Một tấm lòng thương-sót, như giời như bể, có thể bao-dung hết quần-sinh. Nhất thiết bao nhiêu cái khổ-sở trong thế-gian, nhờ một chữ thương mà đều được có phần yên-ủi; nhất thiết bao nhiêu cái tội ác trong thế-gian, nhờ một chữ thương mà đều được có phần dung-thứ. Quí-hóa thay chữ thương! quảng-đại thay lòng thương!

Nhớ người xưa có những câu thơ rằng:

« Thương con quốc dũ kêu mùa hạ.
Thương cánh bèo chôi dạt bể đông.
Thương vợ chồng ngâu duyên chểnh-mảng.
Thương cha mẹ dện phận long-đong. »

Bốn câu thơ ấy, cứ trong sự làm thơ mà nói, tình-tứ đã rất hay; lại ngoài sự làm thơ mà xem, thật tả được một mối thương-tâm bao-la vô-hạn. Ôi, con quốc, cánh bèo, vợ chồng ngâu, cha mẹ dện, thân-thiết với người có là mấy mà tình cảnh duyên phận, còn khiến cho người trong làng thơ âu-sầu ảo-não, giọt mực lệ châu; huống chi cùng là nhân-loại với nhau, cùng là xã-hội với nhau, cùng là gia-tộc với nhau, cùng là cốt-nhục với nhau, càng dan-díu với nhau bao nhiêu, mối thương-tâm càng sẵn bấy nhiêu, dẫu không dan-díu mà xem với con quốc, cánh bèo. vợ chồng ngâu, cha mẹ dện, cũng còn thân-thiết hơn nhiều vậy. Bởi vậy cho nên các thánh-hiền thiên cổ, thường đem hết nhất-thiết cái khổ-sở, tội-ác của nhân-thế mà để trong một tấm lòng thương. Người đời nào ai thương đức Gia-Tô mà đức Gia-Tô vẫn thương đời ở trên cây chữ thập 十. Dân nhà Đường ăn no vỗ bụng, quên cả ơn vua Nghiêu mà vua Nghiêu nghĩ đến kẻ cùng-dân, vẫn thường vì đói rét. Dân nhà Hạ làm càn phạm tội, không thể lòng vua Vũ mà vua Vũ đi gặp kẻ có tội thời xuống xe khóc thương. Tượng ngày lấy giết anh làm việc mà vua Thuấn đối với em, chỉ một niềm yêu thương. Đinh-Vị đầy Khấu-Truẩn ra Lôi-châu mà sau ông Truẩn gặp đi qua, còn hết lòng thương cứu. Ôi, quảng-đại thay tấm lòng thương-sót của thánh hiền mà thương thay cho những kẻ ở trong vòng bao-dung vẫn không tự biết có người bao-dung vậy. Bởi những kẻ ở trong vòng bao-dung không biết có người bao-dung, cho nên nỗi đời lại càng lắm nỗi đáng thương sót. « Bảo con con chẳng nghe nhời, con nghe ông Hễnh đi đời nhà con ». Câu đó thật tả hết cái khổ-tâm của người mẹ thương con mà con vẫn không biết đâu rằng lòng mẹ thương con vậy. Lòng người mẹ thương con bao nhiêu, lòng thánh hiền hào kiệt thương đời cũng bấy nhiêu, suy rộng ra thời con quốc, cánh bèo, vợ chồng ngâu, cha mẹ dển thật cũng đều ở trong một tấm lòng thương-sót ấy. Quảng-đại thay lòng thương!

Pham người, ai muốn học làm thánh hiền hào kiệt, phải nên mở rộng lòng thương-sót. Lòng thương-sót mà có mở rộng được thời mới bao-dung được nhiều những cái khổ-sở, tội-ác của nhân-thế. Những cái khổ-sở, tội-ác của nhân-thế mà có bao-dung được thời mới không có cái bụng nghĩ giận đời, ghét đời. Không có cái bụng nghĩ giận đời, ghét đời mà mới chuyên có cái bụng nghĩ vị đời. Chuyên có cái bụng nghĩ vị đời mà mới sẽ nên thánh hiền hào-kiệt vậy. Ai thánh hiền, ai hào-kiệt, ai bao-dung cả nhân-thế. Ai ở trong vòng bao-dung đó, mà ai có biết ai thương ai.