Bước tới nội dung

Tịch cư ninh thể phú

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

Cảnh báo: Trang này chưa có thông tin {{Đầu đề}}. Nếu bạn muốn giúp, hãy thêm bàn luận, hoặc sửa trang và thay "{{chưa có đầu đề}}" bằng mẫu sau và điền tối thiểu là tựa đề và tên tác giả vào chỗ trống:
{{đầu đề
 | tựa đề   = 
 | tác giả  = 
 | dịch giả = 
 | phần     = 
 | trước    = 
 | sau      = 
 | năm      = 
 | ghi chú  =
 | thể loại =
}}
Nhấn vào đây để xem danh sách các trang Tác gia liên kết đến trang này.

Nguyễn Hãng chỉ có bằng giám sinh trường Quốc Tử Giám,tương đương với cử nhân nho học trước 1945.nhưng tên tuổi Nguyễn Hãng lại vượt ra khỏi khuôn viên một dòng họ,một làng và được định danh trên văn đàn nước nhà chỉ bởi hai bài phú bất hủ"Tịch cư ninh thể" và"Đại Đồng phong cảnh",đó là chưakể bài phú "Tam ngung động"(2) bị thất lạc bản thảo và "Thiên nam vân lục liệt truyện",tập văn xuôi (chữ Hán).Riêng bài phú "Tịch cư ninh thể"đã được nhóm nghiên cứu văn học Lê Quí Đôn(gồm Huỳnh lý,Lê Trí Viễn,Đỗ Đức Hiểu) đưa vào trích giảng văn học,sách giáo khoa dùng cho học sinh trung học đầu những năm sáu mươi của thế kỷ trước.

TỊCH CƯ NINH THỂ (1) PHÚ

Yêu thay miền thôn tịch;

Yêu thay miền thôn tich !

Cư xử dầu lòng,

Ngao du mặc thích.

Khéo chiều người mến cảnh yên hà;

Dễ mến khách vui miền tuyền thạch.

Xó xỉnh góc trời mom đất,một bầu thu cảnh mọn hẹp hòi;

Áy o ruộng núi vườn đèo,bốn mùa đủ thứ vui cọc cạch

Nhưng nhưng thói dật hằng vui ;

Văng vẳng bụi trần dễ cách.

Vậy nên:

Dưỡng tính khề khà;

Náu thân ngờ nghệch ,

Lều bạch mao mảng học chàng Tôn(2)

miếu Lục dã(3) biếng tìm người Tịch(4)

Che khỏi nắng mưa dầu vậy,trên kết tranh mấy tấm bơ sờ;

Dung vừa ngồi,đứng thời thôi ,dưới cắm sậy ba gian rộc rệch.

Song sớm để bình non (5)vây lại,đặt phên dậu thấp sè;

Cửa hôm dầu đèn nguyệt soi vào,rủ bức rèm thưa thếch.

Khách nhàn họp ba chồi cúc muộn ,đứng dựa bên thềm

Bạn lão xum mấy gốc mai già,chen kề tận nghạch

Gió nhân(6) là quạt mát,điểm trần ai thay thảy tan không;

Nước trí(7) ấy gương trong,miền tục lụy lâng lâng rửa sạch.

Hàng trúc ngăn nửa cửa ,nửa sân ;

Lá bồng dắt làm tường ,làm vách.

Cánh sài mòn(8) hé nửa,đi sẽ nghiêng lưng,

Bức thổ trướng (9) dáng ngang,đứng vừa cạp nách.

Cảnh hẹp lòng càng rộng,mắc tới lui hằng đủ hằng vui ;

Nhà thấp đạo càng cao,dù cúi ngửa chi hiềm chi trách.

Ta thường :

Vấn khăn gốc (10) đen sì ,

Vận quần nâu đỏ quạch.

Mũ để ngăn sương chống tuyết,mũ mỏng bao sang sửa cánh dơi(11)

Áo vừa ấm cật che hình ,áo chẳng lọ phủ phê chân bịch(12)

Hạ làm màn,đông làm nệm,mấy lần sô(13) coi đã hẩm sì;

Tay là túi,vạt là khăn, ba bức thổn(14)mặc dầu cũ rích.

Nằm võng tre ngấn cật (15) vằn vè,

Đi guốc gỗ nhịp chân lạch đạch.

ăn thì:

Tương hạnh chua lòm  ;

Muối vầu nhạt thếch.

Sớm ba chén chè sen mát ruột,nài chi vò đất hẩm hiu;

Bữa vài lưng cơm lốc no lòng , sá quản mâm đan xộc xệch.

Vị tươi thường ngọn quất lá vi,

Miếng ngon đủ nhân tùng ,hạt bách.

Tiệc vầy tiên tửu,một niêu canh cẩu kỷ(16) chát sì;

Yến thiết cố nhân,lưng bầu rượu xương bồ (17) cay rách

Thuốc phì phèo quẩn sậy điếu tre,

Trầu phúm phím vỏ da dễ quạch.

Ép dưa măng,mài bột củ,những giao cho mụ lão lom khom,

Quét sân lá,hái nương dâu,dầu phó mặc thằng đồng lách chách.

Trong thì :

Dấu ngựa xe chẳng đến,cỏ bén hơi xuân.

Bạn viên hạc quen thu,hoa cười đón khách.

Cầm một chương,thơ mấy quyển,đủ tháng ngày ngâm ngợi,ấy thú mầu ông Mạnh Hiệu Nhiên (18)

Lan chín khóm,cúc ba hàng,dõi hôm sớm bù trì,này của báu ông Đào Bành Trạch(19)

Ngoài thì :

Rườm rà ,hàng cổ thụ, lồng những tán dù,

Quanh quất dải Kỳ Phong (20) ,bao làm thành quách.

Vượn chào hòa khiếu hót, cách ngàn đưa khúc xướng,khúc ca;

Suối chảy lẫn thông reo, bên tai dõi nhịp đàn nhịp phách.

Chợ chân trời mây họp đùn đùn,

Chày sườn núi nước đâm thình thịch.

Khi thì :

Cầm quạt lá xênh xang,

Quảy túi thơ xốc xếch.

Lẽo đẽo thằng hề mọn (21) trước ngàn mai thơ thẩn đứng chờ ;

Lẳng khẳng cái lừa gầy (22),bên rừng trúc dần dà sẽ lách.

Hem hẻm đường mây lần bước,đứng nhìn non gió thổi hiu hiu;

Phây phây sườn núi rũ dầu,ngồi xem ác (23) bóng đà chênh chếch.

Nghiêng giỏ hái rau nương quế,đủng đỉnh nách mang,

Treo bầu chắt nước suối khe,thảnh thơi tay xách.

Quét am tiên sớm để luyện đan ,

Tựa tòa đá hôm dầu xem sách.

Nương gậy tre,giày (24) dép cỏ,thửa bước khoan đủng đỉnh,ngồi bên khe nhịp miệng hát ngao;

Rải chiếu lá ,ngả giường song,khi hóng mát la cà,về dưới cửa vắt chân nằm đạch.

Tính lặng dễ say mùi đạo,gối quyển vàng giấc ngủ ngáy o o,

Mệnh yên xảy tỉnh lòng trần, trỏ mây bạc vỗ tay cười khanh khách.

Nghiệm thuở hoa tàn nhị nở,biết tuế thời sớm muộn,điểm tay suy giáp, tí lân la(25);

Xem khi yến tới,nhạn về,dòm khí hậu đổi thay,vui dạ nói dương xuân thóc mách.

Của thiên nhiên ,bạc tuyết đủ dùng,

Giàu thổ sản,tiền rêu để tích.

Phương nhân nghĩa để hòa dưỡng tính,báu nhi tôn tráp hãy nặng trầm;

Chữ thanh nhàn nào phải mua ai,tiền mẫu tử túi dầu xóc xách.

Cỏ cây thương vì tính lãn dung (26)

Nước non thấu thửa lòng thanh bạch.

Cầm lầu canh ẩn dật,đành hanh rừng gióng điệu chim;

Gảy khúc nhạc ưu du,đồng vọng ao khua trống ếch.

Xem một phút diều bay ,cá nhảy (27) đành hay lý ngu huyền vi.

Thấy hai vừng thỏ lặn ác soi (28), đã biết thửa cơ biến dịch.

Thả lòmg tham, khơi nguồn dộc, vũng con con thả muống một bè;

Dứt mối tưởng, rư niềm sầu, vườn mọn mọn trồng huyên(29) mấy rạch.

Cảnh chắt chiu nương đậu, nương khoai;

Mùa đắp đổi hàng kê hàng mạch

Cày lũng tuyết sớm giong đủng đỉnh, trải thung chè trèo đèo cơ sở (30), nẻo tắt hình gối hạc ngẳng nghiu;

Hái củi mây hôm quảy xênh xang, qua dặm liễu tới ngàn sam, đường uốn khúc ruột dê ngóc ngách.

Dù ai thăm hỏi nguồn cơn;

Mặc kệ đón tìm dấu tích.

Lắng tai mỏng rành rành lời trước, phải đoái thương tính mệnh, ngoại vật dầu lọn thửa thờ ơ;

Kẻo mình còn lúc nhúc tài hèn, luống dày đội kiền khôn, trong đời chửa chút chi bổ ích.

Mông mênh miền bể bạc, màng rủ rê chi giống dầu dầu(31);

Chất ngất dặm rừng xanh, sá tìm tòi chi loài chích chích(32).

Tuy ngày tháng đà ngày tháng Thuấn, đâu cũng vầng chiếu đất thênh thênh;

Song nước non còn nước non Nghiêu, ta thường vỗ bụng(33) rau phành phạch.

Người chẳng thấy:

Cánh buồm nhẹ giong chơi bể Bắc, kìa anh lánh đục về trong(34);

Cuộc đời tàn nằm mát non Đông, nọ kẻ phù nghiêng chữa lệch(35).

Dở dang tuồng canh, mục, ngư, tiều(36);

Pha phách thói nho, y, đạo, thích(37).

Tựa mây tắm suối, miễn được tiêu dao;

Nương giá phù xa(38), sá gì bộc bạch.

Thong thả một năm mười hai tháng, gặp thời bình trị được làm người;

Ngao du ba vạn sáu ngàn ngày, tới cõi tràng sinh càng dõi mạch.

Dù ai cười thơ thẩn ngẩn ngơ;

Thì ta cũng ngô nghê ngốc nghếch.

Theo bản sao của Phạm Trần Đĩnh

Nam Phong số 95 (1926)

Chú thích :

(1)Tịch cư :ở nơi hẻo lánh ,Ninh thể:yên thân thể.

(2) Bạch mao:cỏ tranh,Chàng Tôn :tức Tôn Khang,người đời Tấn,nhà nghèo,tính chăm học,đêm không có đèn,về mùa đông nhờ ánh sáng tuyết để đọc sách.

(3) Lục dã:Đông cỏ xanh .

(4) Tịch:tức Nguyễn Tịch,người cuối đời Tam quốc,là một trong số "trúc lâm thất hiền",tính tình phóng đạt,ngông cuồng ,khinh thường phú quí,thích uống rượu và đàn luận học thuyết Lão Trang.Hai câu này tác giả có ý nói:không câu thúc chăm học như Tôn Khang và cũng không phóng dật,ngông cuồng nhưNguyễn Tịch,chỉ muốn ở một nơi vắng vẻ,hẻo lánh cho yên thân mà thôi.

(5) Bình non:Dãy núi đứng chắn phía trước như cái bình phong.

(6) Gió nhân:Do chữ Hán:Nhân phong,ý nói nhân đức có thể phổ cập khắp mọi nơi như gió trời.

(7) Nước trí :Do chữ Hán: trí thủy,sách luận ngữ có câu:"Trí giả nhạo thủy ,nghĩa là người có trí thường ưa thíh nước(người có trí là người thông đạt sự lý,trôi chảy,giống như tính chất nước,cho nên thích nước),>Nhân đó có chữ "Trí thủy".

(8) Sài môn :cửa làm bằng những đoạn củi gỗ tạp.

(9)Thổ chướng:bức tường bằng đất.

(10) Khăn gốc:Gốc là phần cuối của đoạn tơ ,to và rắn,thứ tơ này khi dệt ra không được mịn mặt.Kăn gốc là khăn dệt bằng tơ gốc.

(11)Cánh dơi: ý nói cái mũ mỏng mảnh như cánh dơi.

(12)Chân bịch là cái bồ to đựng thóc có chân xòe ra.

(13) sô:vải sợi to dệt thưa.

(14)Thổn :Tên một thứ vải nhỏ sợi.

(15) Ngấn cật :ý nói nằm võng tre in vết hằn trên lưng.

(16)Cẩu kỷ :Một thứ rau tự nhiên thường dùng nấu canh ăn.Hạt nó là cẩu kỷ tử,dùng làm thuốc bổ thận.

(17) Xương bồ:Một vị thuốc vị cay,khí ôn,có tính chất bổ tâm ich trí,trừ phong.Người ta thường dùng ngâm rượu uống.

(18) Mạnh hiệu nhiên:nhà thơ nổi tiếng đời Đường Huyền Tông,ẩn cư ở núi Lộc môn.

(19) Đào Bành Trạch :tức Đào Tiềm.BànhTrạch là tên đất.ĐÀo Tiềm đời Tấn,tên tự là Uyên Minh,bỏ quan về ở ẩn ,làm bài Qui khứ lai từ tỏ ý chí mình.

(20) Kỳ phong :Ngọn núi lạ,đẹp.

(21) Thằng hề mọn :chú hề đồng nhỏ bé.

(22)Cái lừa gầy :con lừa gầy.

(23) Ác:Mặt trời.

(24)Giày :giẫm lên ,Giày dép cỏ :đi giày dép cỏ.

(25) Tuế thời :Tuế là năm ,thời là mùa.Giáp ,tý ,Giáp đứng đầu thập thiên can,Tý đứng đầu thập nhị địa chi.Xưa tính thời gian bằng can , chi.

(26)Lãn dung :lười nhác.

(27)Diều bay cá nhảy :Trong sách Trung dung ,Tử tư dẫn câu :diên phi lệ thiên,ngu dược vu uyên ở thơ Hạn Lộc )đại nhã -Kinh thi )để chứng tỏ rằng Đạo trời sâu xa mầu nhiệm,tồn tại trong muôn sự,muôn vật ,như diều bay trên trời,cá nhảy dưới vực,đều là đạo trời đất cả.

( 28) Thỏ lặn ác soi : Mặt trăng lặn,mặt trời mọc.

(29) Huyên :Tên một thứ cỏ,tức cây hoa hiên,người xưa cho rằng trồng nó có thể quên lo phiền.

(30) Đèo sở : Đèo trồng cây sở ,một loại cây lấy hạt ép dầu.

(31) Giống dầu dầu :Một loại cá rất nhỏ ,ý nói hạng người tầm thường.

(32) Loài chích chích :Loài chim nhỏ như chim sâu ,ý nói loại người tầm thường.

(33) Vỗ bụng: bởi chữ cổ phúc .Theo Sử ký đời vua Nghiêu nhà Đường, thiên hạ bình trị ,nhân dân yên vui,có một ông già ngậm miếng cơm(hàm bô),tay vỗ bụng(cổ phúc) đi dong chơi mà hát ở ngoài đường.,ý nói cảnh thái bình no ấm.

(34) Bá Di lánh nạn đời vua Trụ,ở bãi bể bên Bắc, đến khi có Chu Văn Vương lên làm Tây bá, liền theo về với Văn Vưong,(sách Mạnh Tử).

(35) Tạ An ,tự Anh Thạch,người đời Tấn,ẩn ở núi Đông Sơn.Mấy lần vua mời ra làm quan,không chịu ra.Đời bấy giờ các sĩ phu đã có câu nói:"An Thạch không ra giúp đời thì dân chúng trông cậy vào đâu "?Về sau ,Hoàn Ôn mời mãi ,An Thạch mới chịu ra ,làm chức Tư mã ,rồi làm Tể tướng.Khi Bồ Kiên nước Tần vào đánh nước Tấn,An chỉ huy trận đánh ở Phì Thủy (Hợp phì) phá tan một trăm vạn quân địch.

(36) Canh ,Mục,Ngư,Tiều :Người đi cày,người chăn trâu,người đánh cá ,người hái củi.

(37) Nho,Y,Đạo ,Thích :Người học Nho,người làm thuốc,người theo Đạo tiên,người theo Đạo Phật.

(38) Nương giá phù xa:Xa giá là xe vua đi,ý nói là theo phò vua.