Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn/L
Giao diện
L
- Lá rụng về cội.
Hiểu nghĩa là con cái phải tìm về cha mẹ. - Lạc đàng nắm đuôi chó, lạc ngỏ nắm đuôi trâu.
Con chó chạy dọc đàng thì hay đái hai bên đàng, đi một chặng đái ra một chút, đến khi về thì đánh hơi theo dấu đái mà về không sai ; cho nên người ta nói con chó có tài nhớ đàng ; còn con trâu thì hay nhớ chỗ ở, hai con đều sáng hơi, cọp ở xa chừng một dặm nó cũng biết : con ngựa già cũng thuộc đàng. Vua Tề-hoàng đánh giặc phương xa lạc đàng, ông Quản-trọng biểu thả con ngựa già đi trước mà đem đàng. - Làm dâu nhà cả thể, làm rể nhà nhiều con.
Nhà cả thể khó làm dâu ; nhà nhiều con khó làm rể, mà làm đặng trọn tiếng, mới là hay. - Lâm khát nhi quật tỉnh.
Có chữ rằng : Tù mu ư vị vỏ, lự cập họa tiên. Ràng rịt lúc chưa mưa, lo trước khi chưa có họa. Chớ chờ khi khát mà đào giếng. - Làm lớn phải làm láo.
Làm lớn phải chịu việc lớn. - Lâm nhứt sự trưởng nhứt trí.
Gặp được một việc thì thêm một đều hiểu biết.
- Làm phù thủy không lẽ thường gà.
Gà phải dùng mà làm việc phù thủy, nên hư, chủ phải chịu, chẳng có lẽ bắt đền. - Làm một thì giàu, chia nhau thì khó.
Nhập lại thì nhiều, phân ra thì ít, sự thế phải như vậy, chỉ nói về gia tài. - Làm phước chẳng bằng lánh tội.
Chỉ nói về sự lánh tội, làm phước mà chẳng lánh tội, thì chẳng đặng phước gì. Cũng hiểu nghĩa là làm phước mà phải bị lụy thì chẳng bằng đừng làm, vì sợ làm ơn mà mắc oán. - Làm quan thì dễ, làm thể thì khó.
Ăn ở cho xứng sự thể mình thì chẳng dễ đâu. - Làm ruộng ăn cơm nằm, để tằm ăn cơm đứng.
Làm ruộng, đến khi cày cấy công việc nhiều ; để tằm, đến lúc tằm ăn lên, đều phải nong nả, làm không lập thở, ăn chẳng kịp nhai ; nằm ấy là nằm theo dọc ruộng ; đứng ấy là đứng giữa đám dâu. - Làm thần đất ta, làm ma đất người.
Hay giỏi bất quá tại xứ mình. Có câu rằng : lựa là vàng chín vàng mười, vàng tới đất người, vàng cũng ra thau. - Lang tâm, cẩu hạnh.
Lòng dạ, nết hạnh như muông như lang, chẳng còn biết liêm sĩ, tu ố, chỉ nói về đứa dâm đắm. - Lành làm thúng lủng làm mê.
Có việc dùng hoài, không bỏ ; cứ việc đày xắt mãi. - Lánh nặng tìm nhẹ.
Ấy là tật làm biếng, chữ gọi là tị trọng tựu khinh. - Lấy của mà che thân.
Có của thì dùng, không lẽ làm tôi của ; lại thà mất của chẳng thà thiệt mình hay là để cho mình phải bị lụy. Người làm tôi giữ của, chữ gọi là thủ tiền lổ. - Lấy ngao lường biển.
Chẳng xét trí lực mình. - Lấy thúng úp voi.
Giấu không nhẹm. - Lão bạn sanh châu.
Trai già sanh hột châu ; hiểu về vợ chồng già mà còn sanh con. Có một thứ cây người ta hay trồng vô chậu để mà chơi, lá lớn hơn lá lan mà tía, cũng gọi là lão bạn, già mới trổ bông. Có lời chúc rằng : Cây khổ nở lộc, bạn già có con. - Lão bất tử, lão thành tặc.
Già chẳng chết, già thành giặc, ấy là lời nói chơi kẻ già mà còn có máu dê ; lại rằng : già thành yêu. - Lão giả an chi.
Già an phận già. - Lão lai tài tận.
Già đến, tài hết ; con người đến tuổi già thì hay lụt trí khôn. Có câu rằng : trẻ khôn qua, già lú lại. - Lão mã tri đạo.
Ngựa già biết đàng về. (Coi nghĩa câu lạc đàng). - Lão ngô lão dĩ cập nhơn chi lão, ấu ngô ấu dĩ cập nhơn chi ấu.
Kính già ta mà kính đến già nười, thương trẻ ta mà thương đến trẻ người. Nghĩa là phải tôn kính mọi kẻ già, thương yêu khắp con trẻ. - Lao lực bất như lao tâm.
Nhọc sức chẳng bằng nhọc lòng ; nhọc lòng thì sanh bịnh nội thương. - Lễ thuận nhơn tình.
Lễ chế phải thuận theo lòng người. - Lểu lảo như cháo gạo lương.
Bảng lảng, sơ lược, không ăn thua. - Lý bất cập thế.
Thế là quyền thế hay là thế nương dựa ; hễ thất thế thì phải ức lý ; nghĩa là không thân đặng lẽ ngay. — Khó nhịn lời, mồ côi nhịn lẽ, ấy là lý bất cập thế. - Lỗi thầy mực sách, cứ mạch mà cưa.
Chỉ vẽ quấy có người chchiu, cứ việc ta làm. - Lươn chê chạch dài đuôi.
Ấy là mình ốc chẳng rửa. Biết chê kẻ khách mà chẳng nghĩ thân phận mình. - Lường thân tráo đầu chẳng qua đong đầy.
Quỉ quái chẳng qua thật thà.