Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn/T
Giao diện
T
- Tà thần bất cảm chánh.
Thần tà chẳng cảm hay là chẳng phạm chánh thần. Hễ mình ở chánh trực hay là mạnh mẽ trong mình thì chẳng sợ nhuốm lấy tà khí, hay là tà khí chẳng khuấy mình đặng. Ấy là nguyên khí cố, tắc bá tà bất năng nhập: bịnh ngoại nhơn như phong hàn thử thấp cũng là tà. - Tác xá đáo bàn.
Nghĩa là làm nhà bên đàng. Kẻ qua lại chê khen, nghị luận nhiều thế mà không rồi. - Tài gia là cha ăn cướp.
Tài gia hay khai gian, mất ít xít ra cho nhiều, hay là khai phòng hao, dầu quan có dạy bồi không đủ thì cũng được phần nhiều. - Tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu.
Ở tại nhà tùng cha, gả ra thì tùng chồng. Ấy là đạo tam tùng, phận gái phải giữ. - Tái ông thất mã, nan tri họa phước.
Ông Tái mất ngựa khó biết họa phước. Nghĩa là không biết đâu là họa phước. Tích rằng : ông Tái mất ngựa, người ta tới thăm, ông ấy rằng : đâu biết là không phải họa. Cách ít bữa con ông ấy cỡi con ngựa Phiên mà đi chơi, rủi té xuống gãy tay, người ta cũng đi thăm, ông ấy rằng : đâu biết là không phải phước. Chẳng khỏi bao lâu có việc binh, lệnh truyền phải bắt lính úp bộ, con ông ấy nhờ gãy tay mà khỏi điền lính. - Tài tán tắc dân tụ, tài tụ tắc dân tán.
Của tán ra thì dân nhóm, của nhóm thì dân phải tan. Quan có nhơn, tỉnh hình bạc liểm thì dân sung, quan khắc bạc chinh thâu thái quá thì dân nát. - Tâm bất tại.
Xao lảng không chủ tâm. - Tam đa, ngũ phước.
Đa tử đa phú đa quí, nghĩa là nhiều con, nhiều của, nhiều sang là tam đa; Thọ, phú, khương ninh, du háo đức, khảo thọ mạng là ngũ phước. Du hào đức, nghĩa là nên bề đức hạnh ; khảo thọ mạng, nghĩa là nên mạng sống lâu, chết phi mạng hay chết tức thì không thành thọ mạng. - Tắm khi nào vuốt mặt khi ấy.
Không nghĩ phải chăng, cũng là phủi ơn. - Tam ngu thành hiền.
Ba người dại cũng làm đặng một người khôn ; trí nhiều người hiệp lại cũng nghĩ đặng điều phải. - Tam nhơn đồng hành tất hữu ngã sư diên.
Ba người đồng đi, ắt có kẻ làm thầy ta vậy. Trong ba người phải có người biết đều làm thầy cho ta đặng. Kể mình nữa là ba. - Tam sao thất bổn.
Sao chép nhiều lần, không khỏi sai trong bổn chánh. - Tẩn kê tư thần.
Gà mái giữ buổi sớm hay là gáy giữ buổi sớm. Hiểu nghĩa là đờn bà làm chủ việc nước nhà. - Tận lương vô kế.
Lương thực hết thì chẳng còn mưu chước, nghĩa là không có tiền bạc thì chẳng làm chi đặng. - Tận nhơn lực phương tri thiên mạng.
Hết sức người mới biết mạng trời. Phải hết sức người vì là không biết mạng Trời, giả như mình mắc hoạn nạn hiểm nghèo, thì phải hết sức lo làm cho khỏi, chẳng nên thôi chí sờn lòng; chừng nào làm hết sức mà đáo đầu không khỏi, thì mới hay là số mạng phải làm vậy. - Tân quế mể châu.
Củi như quế gạo như châu thì là đồ hỏa thực ngang quí, mắc mỏ thái quá. - Tận tâm sở sự.
Làm việc hết lòng hay là thiệt lòng làm việc bổn phận. - Tấn thối lưỡng nan.
Khó đàng lui tới hay là không biết tính thế nào. - Tầng dục thân an, tầng dục bịnh.
Năng tắm mình an, năng dâm bịnh. Tắm là tẩy trừ dơ dáy, lại làm cho khí độc trong mình rút ra theo nước, cho nên mình đặng an; hễ năng tắm thì nhẹ nhàng trong mình; năng gần nữ sắc thì tinh thần hao tán, đến đỗi phải uổng yểu chẳng những là bịnh mà thôi. - Tầng lai thân giả sơ.
Năng tới lui lắm, gần hóa ra xa. Có ba đều bất tận ; là bất tận nhơn chi tình ; bất tận nhơn chi tài ; bất tận nhơn chi lực. Lân la lắm thì hóa ra sự nhàm lờn. - Tào khan chi thê bât khả hạ đường, bần tiện chi giao mạc khả vong.
Vợ tấm mẳn chẳng khá bạc đãi ; bạn khó nghèo không khá quên. - Tạo vật vô tình.
Trời sinh muôn vật, chỉ thính ư tự nhiên, dường như không chủ ý. - Tập dử tánh thành.
Tánh bổn thiện mà bỡi tập tương viễn, cho nên tập tới tánh thành, thì là quen tánh. Tập quen theo thói tục. - Tật sau lưng.
Không ai khỏi tật. Ông bụt tổ treo cho người ta hai cái đãy một cái để trước ngực, một cái để sau lưng ; chuyện xấu người khác thì đựng đãy trước, chuyện xấu mình thì đựng đãy sau. - Tay bằng miệng, miệng bằng tay.
Bặt thiệp, miệng nói tay làm. - Tay không chơn rồi.
Gia tài chẳng có; công việc làm cũng không. Hãy còn bợ ngợ. - Tay làm hàm nhai.
Mình làm mình ăn, không cậy sức ai. - Thái quá du bất cập.
Bổ đồng thì lấy bậc thích trung. - Tham bù chẻ gắp.
Chỉ nghĩa là tham cho nhiều. - Tham buổi giỗ lổ buổi cày.
Muốn đặng chuyện nầy phải mất chuyện khác. - Tham đắc vô ỉm.
Tham lam không nhàm, ấy là xà dục thân tượng, nghĩa là rắn muốn nuốt voi. - Thám nang thủ vật.
Thăm đãy mà lấy vật : giặc dẽ thắng thướng gọi là lấy đồ bỏ đãy. Lại nói dị như phản chưởng, nghĩa là dễ như trở tay. - Tham thì thâm dầm thì đen.
Thâm là thâm tổn, câu sau là câu ví, hễ tham thì không khỏi lầm. - Tham vì nết, chẳng hết chi người.
Quí đức hạnh, không quí người. - Tham vui chịu lận,
Người ta nói rằng : Cờ gian bạc lận ; các người đánh bạc cũng vì ham vui mà mất tiền - Thận chung truy viễn.
Cẩn thận việc sau hết, dõi nhớ việc lâu xa. Hiếu thảo kẻ làm con phải nhớ ơn cha nghĩa mẹ, dẫu cha mẹ đã khuất rồi, cũng phải có lòng thành kính. - Thần xuất quỉ một.
Thần mọc quỉ lặn, ấy là tiếng khen mưu chước rất khôn ngoan. - Thần vong xỉ hàn.
Môi mất răng lạnh, nói về hai nước giao lân, địa thế tương tiếp như môi với răng, nếu một nước phải mất thì nước kia cũng phải mất theo. Hai nước gần giao hảo gọi là thần xỉ chi quốc, nghĩa là giao không hề bỏ nhau. - Thẳng mục tàu đau lòng gỗ.
Lời thật mất lòng. Cứ phép thẳng mà làm, sao cho khỏi chích mích. - Tháng năm chưa nằm đã sáng, tháng mười chưa cười đã tối.
Mùa hạ ngày dài đêm vắn, mùa đông ngày vắn đêm dài. - Tháng năm đi trước, chẳng phải đi ngược đàng sau.
Ngày tháng tới trước mắt, chớ nói rằng lâu mau. - Thành môn thất hỏa, ươn cập trì ngư.
Chốn thành mòn bị lửa, hại đến cá trong ao, nghĩa là bị hại lây. - Thanh xuất vu lam.
Xanh ra nơi chàm, hiểu nghĩa là học trò nhờ thầy ; mà nếu thanh quá vu lam, thì là xanh quá chàm, hiểu nghĩa là đệ tử hơn thầy. - Thấp đuốc tìm giàu, giàu chẳng thấy, cầm gươm chém khó, khó theo sau.
Muốn mà không đặng, sợ mà không khỏi thì là mạng ; cho nên người quân tử tùy ngộ nhi an. Có câu rằng : Trí giả an bần, đạt nhơn tri mạng. - Thập mục sở thị.
Mười mắt thửa xem. Chỉ nghĩa là minh bạch trước mắt nhiều người. - Thất chi đòng ngung, thâu chi tang du.
Mất chưng phía đông, thâu chưng phía tây ; mất phía nầy đặng phía khác. - Thật thà là cha dại.
Ăn ở hẳn hoi không đều quỉ quái thì là thiệt thà, đáng cho người ta yêu chuộng ; ăn nói quê mùa không biết biến thông thì là quá thiệt thà, có câu rằng : hiền giả quá ngu; cho nên gọi là cha dại. - Thập thất chi ấp, tất hữu trung tín.
Một ấp mười cái nhà ắt có nhà trung tín. Nhiều người lựa ra cũng có người tốt. - Thâu đa nạp thiểu.
Ấy là nghề riêng các thôn trưởng, hễ thâu thuế thì thâu trội để mà nhập kỉ, ấy là nghĩa chẹt gánh. - Thầy có của sải có công.
Kẻ chịu của người ra công, sự thế cũng đồng. - Thê hiền phu họa thiểu, tử hiếu phụ tâm khoang.
Vợ hiền họa chồng ít, con thảo lòng cha thơ thới. - Thề mắc thắt dối.
Thề thốt không nên đều. - Thệ tề bất cập.
Cắn rún chẳng kịp. Nghĩa là ăn năn việc đã rồi. - Thi ân bất cầu báo.
Ra ơn không cầu trả. Nếu cầu trả thì là bán ơn. - Thỉ chung như nhứt.
Trước sau như một ; không chút đổi đời. - Thị khả nhẫn, thục bất khả nhẫn.
Đều ấy nỡ làm được. đều chi chẳng nỡ làm. Tàn nhẫn thới quá. - Thì lai phong tống Đằng-vương các, vận khứ lôi hoanh Tiến-phước bia.
Thì tới gió đưa các ông Đằng-vương, vận đi sấm đành bia người Tiến-phước. Lúc có phước gió cũng thổi đưa, càng thêm sung sướng, lúc vô phước sâm lại đánh dập, dẫu chết cũng không yên. Ấy tốt phước đặng chì đặng chài; còn xấu phước khó chó cắn thêm. thì là làm vậy. - Thị tắc hành, phi tắc chỉ.
Phải thì làm chẳng phải thì thôi. Con người ta phải có quyết đoán, hễ nghi sợ thì làm không đặng việc. - Thi vị tố xang.
Có vì như vì thần đặt ra mà tế. Lời chê kẻ làm quan vô sở sự sự, ngồi không mà ăn lộc. - Thiệc nhu thường tồn, xỉ can tắc chiết.
Lưỡi mềm hằng còn, răn cứng thì gãy. Mềm mỏng thì bền, cứng cỏi thì phải hư. Cho nên nhu thắng can, nhược thắng cường. - Thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình.
Trả lành trả dữ như bóng theo hình. Nghĩa là báo ứng bấy giờ. - Thiên bất dung gian đảng.
Trời chẳng dung kẻ giang đảng ; hễ làm dữ phải gặp dữ. - Thiên đàng tô tắc dỉ, hữu tắc quân tử đăng. địa ngục vô tắc dỉ, hữu tắc tiểu nhơn nhập.
Thiên đàng không có thì thôi, bằng có thì quân tử sẽ lên, Địa-ngục không có thì thôi, bằng có thì đứa tiểu nhơn phải vào. Như con người ta chết rồi mà hồn thăng vu thiên phách giáng vu địa, lại như khí tụ sanh khí tán vong, thì là tử giả biệt luận ; bằng chết rồi còn có thưởng phạt thì sao phần thưởng cũng về kẻ lành, phần phạt cũng về kẻ dữ; song không lẻ không có thưởng phạt đời sau, cho nên con người ta phải làm lành lánh dữ, ít nữa là cho khỏi sự báo ứng nhãn tiền. - Thiên đạo báo ứng nhãn tiền.
Đạo trời trả đáp trước mắt. Làm dữ liền gặp dữ, làm lành liền gặp lành 'thiệp nhu ảnh hưởng, Nghĩa là chóng như hình bóng như tiếng vang. - Thiên đạo phước thiện họa dàm.
Lẽ trời xuống phước cho kẻ lành, làm họa cho kẻ dữ. - Thiên địa tuy đại, nhơn do hữu sở hám.
Trời đất dầu lớn người còn có chỗ hờn, không lẽ cho vừa ý mọi người. Mưa thì nói mưa, nắng thì nói nắng, thiên địa tuy đại, nhứt thân do ai, nghĩa là trời đất dầu lớn, một thân mình hãy còn chật hẹp, cũng về một nghĩa. - Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo.
Lành có lành trả, dữ có dữ trả. - Thiên sanh nhơn hà nhơn vô lộc, địa sanh thảo hà thảo vô căn.
Trời sanh người, người nào không có lộc, đất sanh cỏ, cỏ nào không có rễ; ai ai đều có phước riêng, lộc riêng của Trời cho ; cỏ không rễ thì phải chết, người không lộc cũng phải chết. - Thiên sanh nhứt thế nhơn, tực túc liểu nhứt thế sự.
Trời sinh ai nấy đều có tài riêng : Hay làm hay, dở làm dở, cũng rồi một việc, qua một đời. - Thiện sanh phước chung.
Sống lành chết có phước. - Thiền thính tự ngả dân thính.
Trời nghe bỡi dân ta nghe. Trời không lỗ tai, chúng dân nghe, ấy là Trời nghe. Có câu rằng : lòng dân thiệt là lòng Trời. Trong sự suy tôn kẻ làm vua chúa, lấy tiếng dân đồng ưng làm chuẩn đích. Hễ chúng dân muốn cho ai thì nấy đặng. - Thiên tử vô hí ngôn.
V Thiên tử không lời nói chơi. Thiên tử là đấng cao trọng, đáng, cho người ta tính phục ; một lời nói việc làm đều có phép tắc thì mới phục đặng thiên hạ. Xưa vua Thành-vương cắt lá ngô-đồng giả làm ngọc quế, nói chơi rằng sẽ phong vương cho Thúc-ngu ; các quan tâu xin phải phong, là vì Thiên tử vô hí ngôn. - Thiên vô nhị nhựt, quốc vô nhị vương.
Trời không hai mặt trời, nước không hai vua. Nghĩa là giềng mối nước nhà phải về một người. - Thọ tài như thọ tiển.
Chịu lấy của như chịu lấy mũi tên. Thầy tăng tử rằng : thọ nhơn chi thi dã thường húy nhơn, dữ nhơn dã thường kiêu nhơn. Nghĩa là kẻ chịu của người cho, hằng sợ người cho ; còn kẻ cho ra lại hay ỷ với người mình cho. - Thợ rèn không dao ăn trầu.
Phần người thì nhớ, phần mình thì quên. - Thỏ thẻ như trẻ nên ba.
Lớn mà còn chút chớt. - Thọ trái oán tài chủ.
Mắc nợ oán chủ nợ ; ít thấy những người mắc nợ có bụng tốt cùng chủ nợ. - Thố tử hồ bi.
Con thỏ với con chồn tuy không phải một giống, song cũng là một loài. Con thỏ chết con chồn rầu là thương vì đồng loại. - Thổi lông tìm vít.
Chữ gọi là "xuy mao cầu tì. Chỉ nghĩa là hay xoi tệ, xét nét, bươi móc từ việc lỗi lầm nhỏ mọn. - Thối nhứt bộ tự nhiên khoang.
Lui một bước tự nhiên rộng rãi. Khiêm nhường nhịn nhục, thì lòng dạ thường thơ thới. Ấy là lưu hữu dư địa bộ. - Thôi quan hoàn dân.
Thôi làm quan thì trở về làng. - Thỏng mắm treo đầu giàn.
Sự thế không bền chắc. - Thớt trên mòn, thớt dưới cũng mòn.
Thớt là thớt cối xay. Phàm kiện cáo nhau, cả liên bị đều phải thất công, tổn của. Ấy là lời giải hòa. - Thủ chu đãi thố.
Giữ cây chờ thỏ. Có một người đương cày ruộng, thấy một con thỏ chạy đụng gốc cây mà chết, liền bỏ cày chạy giữ gốc cây, có ý trông họa may có con thỏ khác chạy đụng nữa mà bắt cho luôn. Ấy là dở tài, chực của sẵn. - Thủ khẩu như bình.
Giữ miệng như bình. Giữ miệng cho kín. Có câu đối rằng đôí rằng : phòng ý như thành. - Thú nào vui thú ấy.
An phận. - Thử nha tước giác.
Răng chuôt, sừng sẻ. Hiểu nghĩa là kiện thư gây gổ. Con chuột hay khoét vách ; chim sẻ hay xoi nhà. Tánh con chuột tham, tánh con sẽ sẽ dâm, một đàng tham một đàng dâm, cho nên hay sanh sự tranh tụng không yên. - Thủ thân vi đại.
Giữ thân mình là việc lớn. - Thú thê bất tại nhan sắc.
Cưới vợ chẳng vì nhan sắc, nghĩa là không phải dụng sắc. - Thủ thử lưỡng đoan.
Nghi sợ không an bề nào. Con chuột ở trong hang muốn chun ra, thì hay nhú nhú ló đầu ra, quày đầu vô, làm như vậy đôi ba lần rồi mới chạy ra. - Thủ vỉ tương ứng.
Đầu đuôi tiếp ứng lấy nhau. Núi Thương-sơn có thứ rắn, chọc đầu nầy cất đầu kia, chọc đầu kia cất đầu nọ. Chỉ nghĩa là có thể cứu giúp nhau. - Thừa trong nhà mới ra bề ngoài.
Trong sự bán chác ruộng đất của cải phải cứ thứ, ấy là thừa nội chí ngoại có câu rằng : Điền liên canh, gia liên cư cũng là cứ người gần. - Thuận thì tu văn đức, nghịch tắc thắng võ công.
Thuận thì làm hiền, nghịch thì sẽ ra tay làm dữ. - Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong.
Thuận trời ấy còn, nghịch trời ấy mất. Nghịch mạng trời thì phải hư mất. - Thuận thiên ứng nhơn.
Thuận lòng trời, ứng đối lòng người ; có ý nói về kẻ làm vua chúa đặng lòng thiên hạ. - Thủy chỉ thanh tắc vô ngư, nhơn chí sát tắc vô đồ.
Nước trong lắm thì không có cá, người hay xét nét lắm thì không có bạn, nghĩa là ít người dám làm bạn. - Thủy khả dĩ tải châu, diệc khả dĩ phúc châu.
Nước hay chở thuyền mà cũng hay úp thuyền. Dân làm tôi vua quan mà cũng có khi hại vua quan. - Thủy lưu tại hạ.
Nước chảy xuống thấp. Phần thua thiệt về kẻ bền dưới chịu ; kẻ bề dưới biết có một sự vâng lời. Có câu rằng : Lịnh tại hồ thượng nghĩa là quyền phép ở tại kẻ bề trên. - Thuyền dời bến cũ không dời.
Sự thể xưa sau không lễ đổi. - Thuốc đắng dã tật, lời thật mất lòng.
Mất lòng mà lợi ư hạnh. - Thương cung chi điểu, kinh khúc mộc.
Chiêm phải ná thấy cây cong cũng sợ. Nghĩa là hãi kinh vậy. - Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi.
Thương con thì phải sửa dạy, bằng chìu theo tính nó, thì là khiến hư cho nó. - Thượng bất chánh hạ tắc loạn.
Trên chẳng chánh dưới thì loạn. Một nghĩa với câu nôm bề trên ở chẳng kỉ cang vân vân. - Thương là hại.
Ấy là nghĩa chữ thương. Làm ơn mắc oán hay là vị sự thương yêu cứu giúp kẻ khác mà mình phải thiệt hại. - Thương hải tang điền.
Biển thẳm hóa nên ruộng dâu, hiểu là đổi dời. - Thương nhau chữ vị là vì.
Vốn là chữ vi mà đổi làm chữ vị, thương nhai thì phải vì nhau. - Tị trọng tựu khinh.
Lánh nặng tìm nhẹ, ấy là nghĩa tránh trút. - Tích cốc phòng cơ.
Dữ trử thóc phòng khi đói, nghĩa là biết lo xa. - Tích kim dĩ gi tử tôn, tử tôn vị tất năng thủ, bất như tích âm đức ư minh minh chi trung, dĩ vi tử tôn trường cữu chi kế.
Tích trử vàng để cho con cháu ; con cháu chưa chắc giữ đặng, chẳng bằng tích âm đức, nghĩa là làm lành trong chốn minh minh, không ai ngó thấy, để làm chước lâu dài cho con cháu. - Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác.
Tích lấy sự lành thì gặp lành, đa mang lấy đều dữ thì gặp dữ. - Tiên cáo bất nại, bị cáo vô can.
Không nài là không kiện nữa. - Tiền chì hai mặt.
Lì lợm, chai đá chẳng biết xấu hổ. - Tiên giác giác hậu giác.
Kẻ biết trước dạy kẻ biết sau. Kẻ lớn dạy kẻ nhỏ. - Tiền hung hậu kiết.
Việc trước dữ mà sau hiền. - Tiền mất tật còn.
Tổn hao vô ích, (nói về tiền thuốc.) - Tiền nang bạc vác.
Phép địch tiền thì lấy mực ngang, còn hàng mau thì cân vác, ấy là phép cân tử mã. Lại bạc nặng hơn tiền kẻm, mực tiền ngang mực bạc thì phải vác. - Tiền phú hậu bần.
Trước giàu sau nghèo. Trước lớn sau nhỏ ; lại đầu nhỏ đít to hay là mặt nhỏ đít to thì nói chơi thể ấy. - Tiền tài như phấn thổ, nhơn ngãi tự thiên kim.
Tiền của như phấn đất, nhơn ngãi dường ngàn vàng. - Tiền tấn hậu kế.
Trước tới sau dồn. Kẻ trước tới người sau cùng tới. Tre tàn măng mọc, chẳng thiếu chi người. - Tiền trao cháo múc.
Mua bán hiện tiền. - Tiền trao ra gà bắt lấy.
Cũng đồng một nghĩa. - Tiên vi chủ, hậu vi khách.
Phép tiếp khách có phân vì khách vì chủ, có ý trọng đãi vì khách. - Tiền xa kí phúc, hậu xa giái chi.
Xe trước đã úp, xa sau răn đó. Phải soi gương trước. - Tiên xử kỉ nhi hậu xử bỉ.
Trước xử mình mà sau xử tới người. Phận mình xong mới nói người ta. Chẳng khá bạc trách kỉ nhi hậu trách nhơn. - Tiếng lành đồn xa, tiếng giữ đồn ba ngày đàng.
Lành cũng có tiếng đồn, dữ cũng có tiếng đồn. - Tiểu sự bất nhẫn tắc loạn đại mưu.
Việc nhỏ chẳng nhịn, thì làm rối mưu lớn hay là việc lớn. Con người ta chẳng nên táo cấp. - Tiểu nhơn đắc chí.
Đứa tiểu nhơn đặng như ý. Có câu rằng : chí thiếu dị dinh ; ụng tiểu nhơn nhỏ, cho nên dễ đắc chí, nghĩa là hay tự túc tự mãn. - Tiểu thuyền bất kham trọng tải.
Thuyền nhỏ không kham chở nặng. Bụ nhỏ không ăn được nhiều. - Tín giả năng nhập.
Hay tin thì có đều xui cho mà tin ; tin thì hay mắc. - Tình ngay lý gian.
Vốn mình ngay, mà mắc nhiều lẽ không ngay. - Tọa hưởng kì thành.
Ngồi mà hưởng nhờ của sẵn. Ấy là Cưu cư thước sào. - Tọa thực sơn bằng.
Ngồi ăn núi lở. Ngồi không mà ăn, dẫu tiền của chất bằng non, cũng phải hết. - Tội lây vạ tràn.
Ấy là tội liên tọa hay là tội vạ động lây. - Tội nghi di khinh, công nghi di trọng.
Tội hồ nghi phải làm nhẹ, công hồ nghi dầu không chắc cũng phải lấy làm trọng. Trong phép thưởng phạt phải lấy công người ta làm trọng. - Tội qui vu trưởng.
Phép bắt tội cứ nơi người làm lớn ; cho nên mũi dại, lại chịu đòn. - Tốt thì khoe xấu thì che.
Ấy là tính tự nhiên, người ta hay ẩn ác, dương thiện. - Tốt tuổi nằm duổi mà ăn.
Tốt số chẳng phải lo nghèo. - Trai chê vợ như của đổ xuống sông, gái chê chồng của một mà hai.
Gái đã ăn lễ đàng trai, nếu vô cớ mà phá, thì phải đến phần thiệt hại bằng hai. - Trai đua mạnh gái đua mềm.
Trai phải cho mạnh mẽ ; Yếu đuối, dịu mềm về phần con gái. Mạnh mẽ nghĩa là cho biết đua tranh nhứt là trong sự học hành ; dịu dàng nghĩa là phải cho nết na khéo léo trong việc nữ công. - Trai tài gái sắc.
Trai dụng tài năng gái dùng nhan sắc, ấy là nghĩa trai anh hùng ; gái thiền quiên, chẳng phải nạhĩa gái tham tài, trai tham sắc, thì là gái tham của, trai tham xinh. - Trăm dâu đổ đầu tằm.
Việc chi cũng đỗ cho người dưới chịu. - Trầm ngư lạc nhạn.
Tục hiểu tư dung lịch sự lắm, thì làm cho cá phải trầm, nhạn phải sa. Nguyệt bế hoa tu ; cũng hiểu là nhan sắc rất đẹp đẽ, chỉ hiểu về sắc đờn bà. - Trăm hay chẳng bằng tay quen.
Hay giỏi cho lắm cũng chẳng bằng quen việc. - Trảm thảo trừ căn.
Chém cỏ cho tuyệt gốc, nghĩa là làm cho tuyệt giống, kẻo còn mọc lại, ấy là trảm thảo lưu căn, phùng xuân tái phát. - Trầm thuyền phá phủ.
Nhận ghe, đập nồi. Quyết ý không trở về. Tướng nước Tần là người Mạnh-mình đem binh đi đánh nước Tần, qua sông rồi thì nhận ghe đập nồi, dạy binh biết đi tới, không biết đi lui. - Trâu béo kéo trâu gầy.
Mập ốm che nhau ; con yếu nhờ con mạnh. - Trâu cày, ngựa cỡi.
Trời sanh mỗi vật đều có tài riêng, có việc dùng riêng. - Trâu chốc cật thấy ác bay qua liền né.
Trong mình có tì vít thì hay sợ. - Trâu cột ghét trâu ăn.
Ấy là nghĩ phân bì. - Trâu đạp củng chết voi đạp củng chết.
Ấy là tiếng kẻ đánh cờ bạc hay nói liều rằng : thà thua lớn chẳng tha thua nhỏ. - Trâu đồng nào ăn cỏ đồng nấy.
Thường hiểu nghĩa ở đâu cưới gả đó, cũng là tiếng ganh. - Trâu sống không ai mà cả, trâu ngã nhiều kẽ cầm dao.
Mà cả là đánh giá mà mua ; trâu sống không ai hỏi tới, trâu chết khỏi tốn tiền mua, thì có nhiều người tới mà xẻ thịt. - Trâu tìm cột, cột chẳng tìm trâu.
Cột chỗ trâu ở : ngọn phải cứ gốc ; đày tớ phải tìm chủ nhà ; con cái phải tìm cha mẹ. - Trẻ khôn qua, già lú lại.
Càng lớn càng khôn, càng già càng lụt. - Trèo cao té đau.
Vinh bao nhiêu, nhục bấy nhiêu. - Trí giả sở kiến lược đồng.
Kẻ trí chỗ thấy gần đồng nhau. Trí người ta không có hạn lượng, song học cho tới nước, thì sự thông biết đều có một thế. - Trí dục viên, nhi hạnh dục phương.
Trí muốn tròn, mà hạnh muốn vuông, nghĩa là trí phải thông biến, nết hạnh phải đằm thắm. - Trí giả thiên lực tất hữu nhứt thất, ngu giả thiên lực tất hữu nhứt đắc.
Kẻ tri ngàn lo ắt có một lầm, kẻ ngu ngàn lo ắt có một đặng, cho nên cuồng phu chi ngôn thánh nhơn trạch diên, nghĩa là lời đứa khùng thánh nhơn cũng chọn. - Tri gian bất tố.
Biết việc gian không tỏ cáo ; ấy là tội dung ẩn. - Trí quá tắc cải.
Biết lỗi mà chừa, thì là khỏi lỗi, biết lỗi mà chẳng chừa, thì là lỗi lắm. - Tri sanh giả điếu, tri tử giả ai.
Biết kẻ sống thì làm lễ điếu, biết kẻ chết thì làm lễ thương. Điều là viếng kẻ còn sống. Ai là thảm cho kẻ chết rồi. Điếu là thăm viếng. - Tri tử mạc nhược phụ.
Biết con chẳng ai bằng cha, kẻ làm cha mẹ thường biết tánh ý con hơn. - Tri túc thường túc, chung thân bất nhục.
Biết đủ hằng đủ, trọn đời chẳng nhuốc. Có câu rằng : Lý thạnh mãn nhi hậu tri chỉ. Được đầy đủ mà sau biết thôi. Con người ta tham ô, không biết đàng tấn thối, lẽ thuận nghịch thì chẳng khỏi nhục. - Triều tam mộ tứ.
Xưa có một người nuôi khỉ, định bữa ăn cho khỉ rằng : sớm ba tối bốn, khỉ giận nhảy nhót không yên. Người ấy lại định rằng ; sớm bốn tối ba, khỉ mầng hớn hở, thiệt sự thì là như nhau. - Trây máu ăn phần.
Làm cho có cớ mà đòi phần ăn, hoặc đòi bồi thường. - Tre khóc măng.
Con trẻ chết trước cha mẹ. - Tre tàn măng mọc.
Tiền tấn hậu kế. Lớp lớn tàn, lớp nhỏ tấn lên. - Trời có sanh có dưỡng.
Trời ấy là phép tạo hóa, hễ có sanh thì có phương che chở. - Trời đánh tránh bữa ăn.
Nghĩa là có công và lại có nhơn. Người ta đang ăn uống mà đánh thì là bất nhơn. Có kẻ hiểu dại ; hễ nghe tiếng sét thì lật đật lấy đồ ăn mà ăn, cho khỏi sét đánh. - Trời không cho hùm có vây.
Hùm có vây cánh thì lại hay bay: Người dữ mà đặng vây kiến, đắc thế làm dữ thì thiên hạ phải khốn. - Trôi sông lạc chợ.
Hiểu là người nghèo khổ vất mã, không có căn cước. - Trốn hèn hèn kèn vất vơ.
Kèm trống phải cho xứng ; - Trung ngôn nghịch nhỉ.
Lời ngay trái tai. Thuận theo chúng thì chúng thương ; nghịch lòng dân thì dân oán. - Trung thần bất húy tử, húy tử bất trung thần.
Tôi ngay chẳng sợ chết, sợ chết chẳng phải tôi ngay. - Trúng bịnh vi diệu.
Thuốc chẳng luận quí hèn, chữa bịnh đặng thì là thuốc hay. - Tử bất giáo phụ chi quá.
Có con không dạy thì là lỗi cha. Phận cha phải dạy con, phải làm nên cho con. - Tự chiêu kỳ họa.
Mình gây họa cho mình. - Tự cứu bất hạ,
Cứu mình chẳng rồi, lại còn cứu ai. - Tử dai kỳ tử.
Phép chia gia tài, thì bất luận tì thiếp sanh, phải cứ tử số quân phân. - Tử giả bất khả phục sinh, đoạn giả bất khả phục thục.
Chết rồi không lẽ sống lại, đứt rồi chẳng khá nối. - Tử giả biệt luận.
Không phải nghị luận về kẻ chết. Chết rồi thì thôi. Cũng là kiếp chết kiếp hết. - Tử hải dai huinh đệ.
Bốn biển đều là anh em, vì bỡi một gốc mà sanh ra. - Tử mã lục thạch.
Câu tử mã, sáu hộc. Tục hiểu là tánh nết chưa thuần, chẳng biết lấy điển ở đâu. - Tứ phương giai hữu tánh, thiên lý bất đồng phong.
Cả thảy trong bốn phương thiên hạ tánh tính, phong tục đều chẳng giống nhau. - Tử sanh hữu mạng.
Chết sống có số mạng : Còn một vế nữa thì là, phú quí tại thiên. - Tự thực kỳ lực.
Mình làm lấy mà ăn ; tay làm hàm nhai. - Tử vị phụ ẩn.
Con vì cha giàu. Ân tình cha con, lẽ trời buộc phải làm vậy. Con to cha tớ tỏ thầy, thì là can danh phạm ngãi. - Tử vô táng địa.
Chết không có chỗ chôn. Phải chết bỏ thây. - Tuế bất ngả diên.
Năm tuổi chẳng diên dẫn cùng ta ; ngày giờ kíp như tên bay, thỏ chạy. - Tuế hàn trí tòng bá chi tâm.
Năm lạng biết tánh cây tòng cây bá. Hai cây nầy chịu lạnh : ví người tài trí gặp cơn họa hiem không sờn lòng. Có câu rằng, hàn tòng ngạo tuyết, cổ bá lăng sương. - Tùy châu đạn tước.
Ngọc nhà Tùy bắn sẻ, chỉ nghĩa là đặng ít mà mất nhiều. - Túng ngư nhập hải, phóng hổ qui sơn.
Thả cá vào biển, thả cọp về núi. Bắt tướng giặc mà thả đi, thì khôn trông bắt đặng nữa, lại còn phải lo nỗi nó về o mà lập trận khác. - Tùng nhứt nhi chung.
Nghĩa là không cải tiết, chết sống cũng một chồng, ấy là trọn đạo với chồng. - Tùng thiện như đăng, tùng ác như băng.
Theo lành dường lên, theo dữ dường lở ; cứ việc làm lành thì trong mình đặng nhẹ nhàng, một ngày một lước tới. Cứ việc làm dữ thì lương tâm nặng nề ; càng ngày càng sụt xuống như núi lở. - Tửu bất túy nhơn nhơn tự túy.
Rượu chẳng say người, người say tại mình. - Tửu nhập tâm như hổ nhập lâm.
Rượu vào lòng, như cọp vào rừng. Say rượu rồi thì loạn tâm tánh, không còn biết phải trái.