Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn/V

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

V

  1. Vạch lá tìm sâu.
    Xét nét tứ đều.
  2. Vải thưa che mắt thánh.
    Làm chuyện dối mắt, che miệng thế gian.
  3. Văn hay chẳng luận đặt dài.
    Nghe qua cũng biết hay dở.
  4. Vắn cổ kêu chẳng thấu trời.
    Oan ức không chỗ kêu. Có câu rằng : Oan nầy còn một vạch trời kêu lên.
  5. Vận nghèo đi tới chỗ mô cũng nghèo.
    Cầm gươm chém khó, khó theo sau.
  6. Vạn sự khỉ đầu nan.
    Muôn việc khởi đầu khó.
  7. Vấn xá cầu điền, nguyên vô đại chí.
    Hỏi nhà hỏi ruộng, vốn không có chí cả. Người có chí có phải tìm việc cao xa.
  8. Vắng chủ nhà, gà bươi bếp.
    Có ý nói về tôi tớ, vắng chủ nhà thì tung hoành làm quấy.
  9. Vàng thật chẳng sợ chi lửa.
    Lòng mình ngay thẳng chẳng phải sợ sự gì.
  10. Vật bất ly thân.
    Vật chẳng lìa mình, người đâu của đó. Có câu rằng : 'Mạng tàng hối đạo, dã dung hồi dâm. Nghĩa là của để bơ thờ, thì giục cho kẻ trộm lấy ; trau hình chuốt dạng, thì làm cớ cho sanh đều tà dâm.
  11. Vật bất tề vật chi tình dã.
    Vật chẳng đều thì là tánh tình tự nhiên nó. Ấy là lời ông Mạnh-tư luận về vật giá có trọng khinh chẳng đồng, mà suy ra các vật tự nhiên cảm âm dương ngũ hàng mà hóa ra, thì chẳng giống vật có tay thầy thợ làm nên.
  12. Vắt chày ra nước.
    Chặt chịa thái quá.
  13. Vật khinh tình trọng.
    Vật nhẹ mà tình nặng ; vật dĩ biểu tình, quí tại lòng không quí tại vật : Lại hiểu là vật hèn mà công hiệu lớn, như thuốc trị bịnh v. v.
  14. Vật qui cổ chủ.
    Vật về chủ cũ. Vật đều có chủ ; không phải của mình, thì là của kẻ khác, mình không đặng làm chủ. Người ta hay nói: Của Thiên trả cho Địa, của Bụt thiêu cho Bụt.
  15. Vỉ đại bất trạo.
    Đuôi lớn không vẫy vùng. Chỉ nghĩa là trên yếu dưới mạnh. Phép trị nước phải cho Cường cán nhược chi, nghĩa là cây mạnh nhánh yếu.
  16. Vì đầu heo gánh gộc chuối.
    Vì Nghĩa phải mà chịu lấy việc không tử tế.
  17. Vị uyên khu ngư, vị tòng khu tước.
    Vì vực sâu đuổi cá thì là con rái, vì rừng rậm lùa chim tước thì là chim bà cắt. Hiểu nghĩa là làm lợi cho kẻ khác, như Kiệt, Trụ bất nhơn đuổi dân về Thang, Võ.
  18. Vị tri sanh, yên tri tử.
    Chưa biết sống, đâu biết chết. Thầy Tử cống hỏi đức Phu tử về thân sau, đức Phu tử trả lời rằng : Thân sống chưa biết, lẽ gì biết được thân chết.
  19. Việc làm thì nhác, việc ác thì siêng.
    Ấy là tiếng mắng đứa làm biếng mà hay khuấy.
  20. Việc người thì sáng, việc mình thì quáng.
    Ai nấy lâm tới việc, thì tối tính. Lại họa lai thần ám.
  21. Viễn thủy nan cứu cận hỏa.
    Nước xa khôn cứu lữa gần. cho nên viễn thân bất như cận lân ; nghĩa là bà con xa chẳng bằng láng diềng gần.
  22. Vịt già gà tơ.
    Vịt để lâu năm, gà vừa đứng lứa, đều là vật ăn ngon.
  23. Vịt nghe sấm.
    Lỉnh lãng, không biết nghe.
  24. Vô cai quản bất đắc hành hạ.
    Có phần cai quản mới đặng sai khiến. Kẻ lớn cai quản con trẻ thì là thượng áp hạ.
  25. Vợ chết thật vợ mình.
    Mình chết trước thì vợ mình người khác lấy, con mình người khác chưởi, của cải mình người khác dùng, ruộng đất mình người khác cày, ngựa mình người khác cỡi, ấy là lời ông Tăng-tử vỗ bồn mà ca khi vợ chết.
  26. Vợ chồng như áo bận vào cỗi ra.
    Sự thể phải đổi thay, đối với câu : "huinh đệ như thủ túc.
  27. Vô chứng bất thành tụng.
    Không chứng không nên việc kiện.
  28. Vô cố nhi đắc thiên kim bất tao đại phước tất hữu đại họa.
    Không cớ mà đặng ngàn vàng, chẳng gặp phước lớn, ắt có họa lớn. Của vô cớ là của đem tới thình lình hoặc không cầu mà đặng, hay là của gian.
  29. Vô địa lập chùy.
    Không đất cắm dùi. Nghĩa là nghèo lắm. Có câu rằng : Tịch niên do hữu lập chùy địa, kiêm niên liên chùy dã vô. Nghĩa là năm trước còn có đất cặm dùi, năm nay cả đất dùi cũng không có.
  30. Vô hoạn nạn bất anh hùng.
    Ấy là Anh hùng đa hoạn nạn. Hữu thử thân hữu thử khổ.
  31. Vô đậu bất thành nhơn.
    Mỗi một người đều phai nên trái giống mội lần ; nên trái giống rồi, mà khỏi tật bịnh hiểm nghèo, thì mới gọi là thành nhơn.
  32. Vô hữu bất như kỉ dã.
    Chớ làm bạn với kẻ chẳng bằng mình. Có ích hữu, tổn hữu người khôn ngoan hiền đức thì là ích hữu. Không tài đức hơn mình, không làm sự phạm cho mình đặng thì là không bằng mình;
  33. Vô phược kê chi lực.
    Không sức trói gà, nghĩa là yếu đuối quá.
  34. Vô quan nhứt thân khinh, hữu tử vạn sự túc.
    Không làm quan thì là nhàn rảnh ; có con muôn việc đủ, chỉ nghĩa là có con thì lấy làm vui hơn hết.
  35. Vô thái quá bất cập.
    Phải giữ mực thích trung.
  36. Vô tiểu nhơn bất thành quân tử.
    Không có tiểu nhơn thì không thành cho người quân tử. Lại có câu rằng : không có quân tử thì ai khiến tiểu nhơn. Trí, ngu, hiền bất tiếu đều nương nhờ nhau.
  37. Vô trung sanh hữu.
    Chuyện không có làm cho có ; đặt đều, sanh chuyện.
  38. Vô tửu bất thành lễ.
    Lễ phép Annam trong việc kiện thưa, cưới hỏi đều phải có rượu : khi có mời thỉnh hay là thưa thốt chuyện gì thì thường có cơi trầu chén rượu. (Ấy là nói về phép làng).
  39. Vô vận bất năng tự đạt.
    Con người ta làm nên, thì là nhờ vận.
  40. Voi thuộc voi, ngựa thuộc ngựa.
    Đồng là một phe một bọn thì thuộc biết tình ý nhau ; như kẻ trộm biết kẻ trộm.
  41. Vọng tự tôn đại.
    Mình tôn mình làm lớn. Tực tác thông minh ; khinh thế ngạo vật ; miệt thị thiên hạ ; mục hạ vô nhơn, đều về một nghĩa tự kiêu, lấy mình làm hơn mọi người.
  42. Vu phản tội đồng.
    Kẻ cáo gian mắc luật phản tọa : làm cho kẻ bị cáo phải tội gì, thì mình phải chịu tội ấy.
  43. Vúc vắc hoặc xắc vắc như mặt đánh bồng.
    Bộ húc hất không nên nết.
  44. Vui đâu chức đó.
    Ham chơi sa đà chẳng nghĩ tới việc nhà.
  45. Vụng múa chê đất lệch.
    Phản cầu như thân, phải trách nghề mình chưa tinh.
  46. Vườn rộng chớ khá trồng tre là ngà ; nhà rộng chớ chứa người ta ở cùng.
    Ấy là phòng về sự đông người ở, hay sinh đều bất bình.