Tam quốc diễn nghĩa (Nguyễn An Cư dịch)/Tựa

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

TỰA

Truyện Tam-quốc trực trần thiệt sự.— Coi với trong Chánh sữ không sai.— Đả lầm trong trang quỉ quyệt trí tài.— Lại nhiều kế tâm hoài nghĩa khí.— Ai nhơn từ bằng ông Lưu-Bị.— Ai gian hùng như Nhụy-Tào-Mang.— Quan-công-hầu một tấm trung can.— Lòa ngọn đuốc rỡ ràng gương nhựt nguyệt.— Trương-dực-Đức hoanh hoanh liệc liệc.— Tánh bình sanh chơn thiệt trực tình.— Ngô-tôn-Quyền nhờ ấm phụ huynh, Giang-đông quận một mình hổ-cứ.— Gia-các-Lượng cao mưu viễn lự.— Hai ba phen khí tữ Châu-Do.— Qua đông-ngô thiệt chiến quần nhu.— Phò Hậu-chúa ngàn thu danh rạng.— Triệu-tữ-Long Đương-dương Trường bảng.— Muôn mũi thương hà hoạn thữ quần.— Trải mật gan ước thệ với Minh-quân.— Dầu tái cốt phấn thân nào nại.— Tiếc Lử-Bố dỏng mà phi ngải.— Đả phò người ngoái lại giết người.— Lũ Thập-thường nghĩ gẩm nực cười.— Vì mười đứa mà mấy mươi đứa chết.— Khí số Hớn mòn mòn tiêu hết.— Động đao binh luốn mệt chúng khăng vàng.— Câm hờn thay Đỗng-Trát bạo tàn.— Thôi, Tị, lại đồng đoàn trợ ngược.— Vương-tư-đồ liên-huờn dụng chước.— Nhờ Điêu-Thuyền thao lược khéo khôn.— Dọng phấn hương Đổng, Lữ, thảy tan hồn.— Tuy ca-kị danh còn bia tạc.— Trời đả khiến chia ba chơn vạt.— Cám Đào-viên cơn lưu lạc khốn cùng.— Xưa đến nay những cuộc tranh hùng.— Duy Tam-quốc lạ lùng thứ nhứt.— Đả lắm kẻ mưu mô tài lực.— Thêm chán người kiến thức văn hương.— Biết bao nhiêu trí dỏng khác thường.— Đem danh tánh kễ tường sao xiết.— Tôi tác giả há khoe rằng biết.— Nghề nghiệp chơi nghiên viết tợ đồng. Ơn chủ nhà kẻ cũa người công.— Dịch toàn bộ thĩ chung cho trọn tiếng.— Định chắc chắn năm hồi một quyển.— Cọng hai mươi bốn quyển hậu tiền.— Hết cuốn kia cuốn nọ kế liền.— Người ghé mắt khỏi phiền trông đợi.— Lớp hậu tấn ông nào lanh lợi.— Đường rộng dài giúp tới thêm hay.— Lời kịch quê trước sách diển bày.— Gương sự tích càng ngày càng tỏ.