Thơ Đỗ Phủ/16
PHỤ-LỤC
BÀI VĂN BIA TRÊN MỘ ÔNG ĐỖ, NGUYÊN HÀM KIỂM HIỆU CÔNG-BỘ VIÊN-NGOẠI-LANG ĐỜI ĐƯỜNG.
Nguyên Chẩn (viết khi làm Công Tào ở Giang-Lăng)
Tự rằng: Tôi đọc thơ đến thơ Đỗ-Tử-Mỹ mà biết được nơi tóm-họp của các thể lớn nhỏ... Xưa kia, đời Nghiêu, Thuấn, vua tôi cùng nhau nối lời xướng họa. Sau đó các thi-nhân nối theo mà làm. Trải qua Hạ, Ân, Chu hơn nghìn năm, — Trọng-Ni[1] bèn thu-nhặt. kén chọn những bài có can-hệ đến việc giáo-hóa nhất, tất cả ba trăm bài. Ngoài ra không còn được nghe nữa. Đến bọn Tao-nhân lên mà thêm nhiều vẻ bực-tức, oán than, song cách đời Phong, Nhã còn gần, còn so-sánh với nhau được. Từ Tần, Hán trở xuống, chức quan « Nhặt thơ » đã bỏ. Những lời xướng-ca, đùa cợt, vè-quê, hát nhảm, cho đến tán, tụng, phúng, phú, người thiên-hạ tùy thời gián-hoặc cũng có làm. Đến Vũ-đế nhà Hán làm thơ vịnh cung Bá-Lương, mà bắt đầu có thể « bẩy chữ ». Bọn Tô-Vũ, Lý-Lăng thì giỏi nhất về thể « năm chữ ». Tuy rằng phép câu, luật văn có khác nhau, nhã-nhặn. quê-kệch cũng lẫn lộn, song lời ít, ý xa, nhân việc mà tỏ tình, nếu không có vì một cớ gì, thì văn không có viết bậy! Sau đời Kiến-Án, bọn văn-sĩ trong đời mắc vạ chiến-tranh. Cha, con họ Tào[2], làm văn ở trên yên ngựa! Đôi khi ngang giáo đọc nên thơ... Những bài của họ, kể ra vẻ mạnh mẽ, trầm bổng, ai oán, đau-thương, còn hay hơn đời cổ! Đời sang Tấn, phong cách cũng hỏi còn. Vào khoảng Tề, Lương, việc giáo-dục bỏ mất côn-bản. Kẻ đi học chuộng nhau về những tính hỗn-xược, dông dài, liều-lĩnh! Văn chương thì lấy mầu-mè, chải-chuốt, phóng-khoáng, tỷ-mỷ làm hay. Ấy là những văn ngâm vịnh tính-tình. bê-tha phong cảnh! Ý-nghiã và lực lượng, thì chả có gì đáng kể! Sa-sút cho đến Lương Trần những lời dâm-đãng, đẽo-gọt, điêu-xảo, vụn-vặt, lại càng ngày càng quá! Ấy lại là cái mà Tống, Tề cũng không thèm đếm-xỉa nữa! Nhà Đường lên, việc học công rất mở-mang Những vẻ hay ở các đời trước, đều ra đủ cả. Lại về dòng Thẩm Thuyên-Kỳ, Tống Chi Vấn, rèn xét tinh tế, cầu cho tiếng được êm, thế được thuận, gọi nó là « thơ luật ». Từ đó trở đi, thể văn đã biến hóa rất mực. Thế nhưng không ai là không: thích thể xưa thì sót lối mới; chăm văn hoa thì bỏ thực-thà; học Tề, Luơng thì thua hẳn Ngụy, Tấn: giỏi Nhạc-phủ thì đuối về ngũ-ngôn; luật đúng thì cốt-cách không còn; khuôn rộng thì mặn nồng không có... Duy đến Tử-Mỹ thì thật là trên đến sát Phong, Nhã; dưới bao trùm Thẩm, Tống; lời cướp cả Tô, Lý; khí nuốt cả Tào, Lưu; át vẻ cao-kỳ của Tạ, Nhan; thừa mầu xinh đẹp của Từ, Dữu; giữ được thể-thế của người đời xưa, mà lại gồm có các sở-trường riêng của người đời nay!... Ví phỏng Trọng-Ni lọc lấy những ý cốt-yếu, thì cái nhiều đó chẳng biết có lấy làm quý không?... Nếu kể về chỗ làm được cái người khác không làm nổi « không cái gì có thể mà cũng không cái gì là không có thể », thì từ khi có thi-nhân đến giờ, chưa có ai như Tử-Mỹ cả!
Thời đó người Sơn-Đông là Lý-Bạch cũng nổi tiếng là viết văn có tài lạ. Người đồng thời gọi là Lý, Đỗ. Tôi xem vẻ mạnh mẽ, phóng túng, bỏ hết bó buộc, mô tả mọi vật, cùng các thơ, ca Nhạc-phủ thì Lý cũng gần ngang vai với Tử-Mỹ. Đến như phô bầy sau trước, sắp đặt tiếng vần; dài có khi nghìn chữ; thứ cũng đến mấy trăm; lời lẽ hào mại mà dọng điệu trong, sâu; đối chác chọi, lề luật đúng, mà trút bỏ được những cái tầm thường, nông nổi; thì Lý còn chưa tới đuợc ngoài phên dậu của Đỗ, chứ chẳng kể chi là vào được trong nhà! Tôi đòi phen muốn phân tách văn ông, dồn thể nào vào thể nấy để làm chuẩn-đích cho người đời sau. Chỉ vì có bệnh lười nên chưa làm được đó thôi. Xẩy gặp cháu Tử-Mỹ là Tự-Nghiệp, bốc mộ Tử-Mỹ, đem về an táng ở Yển-Sư. Đường qua Kinh-Sở. Vốn biết tôi hay nói đến văn chương của ông, bèn xin tôi làm cho bài « chí ». Chối không thể được, tôi nhân chép rõ quan-chức, gia-thế, và ghi lại việc chôn cất cuối cùng...
Hệ rằng: Xưa Dương-Thành hầu họ Đỗ... Dưới đó mười đời sinh ra Y-Nghệ, làm Lệnh huyện Củng. Y-Nghệ sinh ra Thẩm-Ngôn. Thẩm-Ngôn hay thơ, làm đến Thiện-bộ Viên-ngoại lang. Thẩm-Ngôn sinh ra Nhàn. Nhàn sinh ra Phủ. Nhàn làm Lệnh huyện Phụng Thiên. Phủ tự là Tử-Mỹ. Trong đời Thiên-Bảo dâng bài phú Tam Đại Lễ. Minh-Hoàng thấy tài lạ, truyền Tể-Tướng đem văn thử. Văn hay, cho chức Hữu-Vệ suất-phủ trụ-tào. Gặp lúc Kinh-đô loạn, đi chân đến chầu Hành-tại, bổ chức Tả-Thập-Di. Hơn một năm sau, vì nói thẳng mất quan, ra làm Tư-Công ở Họa-Châu, rồi thăng chức Công-Tào ở Kinh-Triệu. Tiết-Độ-sứ coi Kiếm-Nam là Nghiêm-Vũ tiến cử làm Viên-Ngoại-lang bộ Công, tham mưu việc quân. Chẳng bao lâu lại bỏ quan đi, buông thuyền xuống khoảng Kinh-Sở. Rồi chết ở chỗ trọ, chôn tạm Nhạc-Dương, hưởng tuổi năm mươi chín Phu-nhân người Hoằng-Nông, con gái họ Dương; cha là Di, làm Tư-Nông Thiếu Khanh, bốn mươi chín tuổi mà mất. Con trai cả là Tôn-Vũ, ốm không kịp làm lễ an-táng. Lúc chết, dặn con là Tự-Nghiệp. Tự-Nghiệp nghèo, không lấy gì chi dụng được việc tang. Thu nhặt và đi xin, ngày đêm khó nhọc... Cách sau khi Tử-Mỹ mất hơn bốn mươi năm, mới làm trọn được chí của người trước, cũng đáng kể là khó vậy.
Minh rằng:
« Duy năm Quý-Tỵ đời Nguyên-Hòa, đến giờ lành ngày mỗ, tháng mỗ, hợp táng Đỗ-Tử-Mỹ của chúng ta ở trước rẫy núi Thú-Dương. Thương ôi! nghìn năm sau đây sẽ nói: Đây là mồ cũ của một ông nhà văn! »