Bước tới nội dung

Thơ Đỗ Phủ/6

Văn thư lưu trữ mở Wikisource



NHỮNG THƠ LÀM TRONG KHOẢNG KIỀN-NGUYÊN, THƯỢNG-NGUYÊN, THI-SĨ TỪ TẦN-CHÂU SANG ĐỒNG-CỐC RỒI Ở LẠI THÀNH-ĐÔ

XCII. — GIẾNG MUỐI

Cỏ cây trắng xát đồng chua!
Xanh xanh là lớp khói lò muối bay!
Lò này nhà nước cho xây;
Muối sôi trong chảo, khói đầy ngoài sông...
Hằng năm giếng mỏ khai đông.
Suốt ngày xe muối lồng-cồng chen nhau.
Ba tiền, giá bán ban đầu.
Ra ngoài chợ bán những đâu sáu tiền!
Bọn dân khổ sở đua chen.
Các quan giữ giá khỏi lên, khó lòng!
Hoài hơi than vãn mất công.
Việc đời vốn vẫn trong vòng tự-nhiên!

XCIII. — CHÙA PHÁP KÍNH

Nguy đến tìm nơi khác,
Hoài công khó nhọc chưa?
Hồn kinh đường núi hiểm,
Sầu vỡ cảnh chùa xưa!
Tha thướt rêu xanh mượt.
Rì-rào mo rụng thưa!
Quanh quanh chân núi, suối.
Lất phất ngọn thông, mưa!
Sáng sớm vầng hồng lóe,
Phá tan mây phủ mờ!
Hoành son, soi đỏ chói;
Cổng ngõ, sáng coi thừa!
Chống gậy quên đường trước,
Ra ngàn đã quá trưa.
Véo von nghe tiếng quốc,
Đường nhỏ chịu làm ngơ!

XCIV. — ĐÈO THANH DƯƠNG.

Đất ngoài ải khổ nhau vì núi!
Càng sang Nam đường lối càng kinh:
Ngàn ngang, rẫy dọc gập ghềnh!
Làn mây, hơi nước phủ quanh mịt mờ!

Rừng quay mặt, đèo nhô đầu tới!
Trời hẹp không! Vách núi chắm sao!
Mé Tây năm dậm đá chao
Hầm hầm dọa định đỗ vào đầu ta!
Tiếng gió thổi: tiếng ma-quỷ rú!
Bốn bề trông sương phủ tơi-bời!
Cúi e trục đất rụng-rời!
Ngửng nhìn thấy bánh-xe trời lệch nghiêng!
Qua Lũng-Bản nhớ riêng hôm trước, —
Trời thu trong... — Ngô-nhạc với trông:
Mỉm cười ngắm Bắc, nhìn Đông,
Liên-Hoa còn thấp! Khống-Đồng chả cao!
Vẻ hùng-dũng so vào đã thấy
Thế chơi-vơi chỉ dấy không đâu!
Nghĩ còn đủ dợn hồn nhau!
Tới đây mới biết cao, sâu vô cùng!

XCV. — PHƯỢNG-HOÀNG-ĐÀI

(Núi chắm, không ai lên được đỉnh)

Thon von kìa đỉnh Phượng-Hoàng,
Bắc trông sang trấn Tây-Khang cách vời.
Chúa Tây nay bặt tăm hơi!
Véo von tiếng phượng nghe thời cũng không!
Núi cao, lối tuyệt nẻo thông!

Hơi mây rừng đá bốc xông tận trời!
Tìm đâu muôn trượng thang dài?
Vì chàng đỉnh núi lên chơi họa là
Gặp đàn phượng nhỏ xót xa,
Không mồi, không mẹ, kêu la ngày ngày!
Trái tim ta quyết phanh ngay
Cho chim ăn, uống, họa khuây dạ sầu!
Tim này trái trúc kém đâu[1]:
Đỏ tươi rờ-rỡ phải cầu nữa chi?
Máu này suối ngọt kém gì?[1]
Dòng trong leo-lẻo dễ bì được ru?
Quý điều ứng với nhà vua,
Mạng hèn dù phải liều cho dám nài!
Ngồi xem lông cánh mọc dài,
Cất mình khắp tám phương trời bay tung!
Ngậm tranh-báu tự thiên-cung,
Xuống mười-hai lớp lầu rồng nghỉ-ngơi!
Tranh đem dâng trước Con Trời,
Để công phượng lại trăm đời không quên!
Gây dừng nghiệp cả lại lên...
Muôn dân trút sạch lo phiền bấy nay!

Đó điều mong ước lòng nay...
Cớ sao quân giặc quấy rầy chưa thôi?...

XCVI. — TRONG ĐỜI KIỀN-NGUYÊN, Ở TRỌ HUYỆN ĐỒNG-CỐC, LÀM BẢY BÀI CA

I

Có khách... có khách tên Tử-Mỹ;
Tóc bù, bạc, quá hai tai trễ;
Ngày chiều, trời lạnh, giữa hang sâu,
Theo lũ bú-rù tìm hạt dẻ...
Quê nhà đắm tin không lối về;
Da tê, thịt chết, chân tay nẻ!
Thương ơi! Ca một khúc chừ, biết kêu ai?
Vì ta, gió thảm nổi phương trời!

II

Cuốc dài... cuốc dài, chuôi gỗ trắng!
Đời ta lấy bác làm tính-mạng!
Dong, đao không mậm; tuyết núi giầy...
Áo ngắn kéo hoài không kín cẳng!
Lúc này cùng bác về tay không,
Gái khóc, trai rên, bốn vách lặng!..
Than ơi! Ca hai khúc chừ, ca vài câu,
Vì ta, hàng xóm mặt âu-sầu..

III

Ba em... ba em xa bấy nay,
Biết đứa nào hơn đứa nào gầy?
Bụi giặc mù trời, đường khuất nẻo...
Sống mà không gặp xiết chua cay!
Sang Đông mòng, kết theo nhau bay!
Đưa hộ ta sang với chúng mày!
Than ơi! Ca ba khúc chừ, đã thất thanh!
Mày về, nào chốn lượm xương anh?

IV

Em gái... em gái xa bấy chầy;
Chồng thì chết sớm, con thơ ngây!
Sống dài, sóng lớn, thuồng-luồng dữ...
Năm năm không gặp, biết sao đây?
Thuyền con muốn tới, tên đầy mắt!
Mù-mịt miền Nam cờ rợp bay!
Thương ơi! Ca bốn khúc chừ, gan ruột xót!
Vượn núi vì ta lên tiếng hót...

V

Gió núi đập quanh, khe chẩy xô...
Lâm-râm mưa lạnh ướt cây khô...
Cáo vàng đứng sững, cáo trắng nhẩy...

Thành cổ cỏ hoang, mây mịt-mù!
Đời ta sao lại ở xó núi?
Nửa đêm ngồi rậy muôn mối lo!
Thương ơi! Hát năm khúc chừ, hát đường trường...
Gọi hồn về chẳng tới quê-hương!

VI

Rồng nam hiện ở suối bên đồi...
Gộc-gạc cây lớn mọc liền chồi...
Lá cây vàng rụng, rồng đương náu...
Rắn độc Đông sang, rỡn nước chơi!
Ta đi thấy nó dừng chân bước,
Tuốt gươm toan chém, đành lại thôi!
Thương ôi! Ca sáu khúc chừ dạ phân-vân.
Vì ta, sông núi đổi mầu Xuân!

VII

Tài trai đời đã già rồi nguyền chịu lỗi!
Ba năm đói chạy miền rừng núi!
Giầu sang cần phải sớm nên thân:
Khanh, Tướng Trường-An trai-trẻ ói!
Bạn quen trong núi: mấy nhà nho
Nhắc lại chuyện xưa đành nuốt tủi!
Thương ôi! Ca bẩy khúc chừ xiết thương đau!

Ngửa mặt nhìn trời: ngày hết mau!

XCVII.— ĐẦM VẠN-TRƯỢNG

(Làm ở huyện Đồng-Cốc)

Đầm xanh đượm vẻ nhiệm-mầu...
Giống thần ẩn-hiện khi nào, ai hay?
Rồng thiêng nương vũng nước đầy...
Nước sâu muôn trượng, hang rầy ở trong...
Vươn chân đạp cõi mịt-mùng;
Nghiêng mình lượn xuống giữa vùng khói mây...
Sóng cồn phía trước rộng thay!
Chịu nhường, đá lớn bên này đứng lui...
Núi cao dứt nẻo trèo chui,
Đôi bờ đứng sóng như đôi bức thành!
Nền xây trên cõi không-thinh;
Bóng lồng xuống khoảng long-lanh lộn-nhào...
Đen như mầu đọng đáy ao;
Trong nhìn thấy rõ trăng sao sáng-ngời...
Chim bay khôn vượt ra ngoài;
Mây trôi, trôi lại tuyệt vời thẳm sâu!
Giây rừng: màn rủ trước sau!
Cây rừng: cờ cắm chen nhau xa gần!
Mạch ngầm, nước ngấm rỉ dần...
Lối quanh, dòng lượn lần lần tới sông...

Không người, cảnh đẹp vô cùng!
Biết nhìn cũng ở tự lòng chúng ta.
Về còn tiếc-rẻ lân-la...
Chuyến chơi này thực dối già không hai!
Tiết Đông náu kín vẩy dài,
Ra, vào vướng những đá gài đó đây...
Nắng Hè mong tới chốn này,
Nhìn xem cho hả những ngày gió mưa!

XCVIII. — ĐÒ THỦY-HỘI

Đường núi từng cung một,
Đương đêm cũng phải mò!
Trăng non chìm đã sớm...
Kẽm dốc lối khôn dò.
Trước mặt sông lên tiếng
Ầm-ầm tưởng bể xô...
Lái đò thầm sắp lái,
Khinh sóng, hát vang đò!
Gỗ, đá, sương trơn, trượt...
Chân, tay, giá lạnh co!
Xuống thuyền nghìn sự nghĩ;
Vượt núi vạn chiều lo...
Đưa mắt ngoài dòng nước,
Mới hay sao vẫn khô!

XCIX. — PHI-TIÊN-CÁC

Ải qua đường núi hẹp không.
Lối đi nhỏ tựa chiếc lông ngang trời!
Cầu mây, tay vịn chơi vơi.
Thang mây, bậc đá xếp coi vững bền.
Rừng thưa muôn suối chẩy bên:
Sóng xô dồn-dập; hơi lên mịt-mù.
Trong thì dông tố gào to...
Ngoài thì ánh nắng chiều thu lờ-mờ...
Nghỉ yên chân núi bấy giờ
Trông lên mới biết lối vừa đi cao!
Người người, ngựa ngựa mệt nhao!
Nằm ngồi lẫn lộn nhìn vào chán chưa!
Long-đong trong kiếp sống thừa.
Đói, no là số, bây giờ kêu ai!
Ngắm con, ngắm vợ thở dài:
« Cớ sao ta cứ theo hoài chúng bay? »

C. — NGŨ-BÀN

Ngũ-Bàn tuy hiểm-trở,
Cảnh núi đẹp không ngờ...
Nhìn lên cầu núi nhỏ;
Trông xuống rặng cây thưa.

Hẻo lánh không chài lưới,
Sông trong cá lượn-lờ...
Dân Mường làm tổ ở...
Chim đẹp đậu lơ-thơ...
Phong-tục coi thuần-phác,
Lòng mừng nghĩ tạm thư.
Cõi Đông còn trận-mạc,
Giặc hết biết bao giờ?
Quê cũ, em trai, gái
Long đong kiếp sống thừa!
Thành-Đô vạn vui thú,
Vẫn kém túp nhà xưa!

CI. — LONG-MÔN

Sông trong xuống Long-môn,
Vách đứng không tấc đất!
Từ cổ vẫn ào-ào:
Gió dài, sóng cao ngất!
Lối hiểm vòng vèo qua,
Trông như đường chỉ đặt!
Ai đục đá lênh-chênh?
Cầu treo lơ-lửng vắt!
Mưa tạt rức bên đầu!
Hoa rơi quáng đôi mắt!

Trăm năm dám chắc đâu,
Trượt cẳng thôi đi đứt!
Đại-Dữu với Cồ-Đường,
Nghe nói như đây tất!
Gian-hiểm trải quanh đời,
Chuyến này lo sợ nhất!

CII. — KIẾM-MÔN

Thế hiểm-trở tự trời xếp đặt,
Ải Kiếm-Môn hùng nhất trong đời!
Tây Nam rẫy núi chạy dài,
Nhằm về mạn Bắc đá thời quay lên!
Vẻ đục-chạm như in thành quách,
Núi dàn ra hai vách hai bên.
Một người hùng-hổ đứng trên,
Dẫu quân trăm vạn có lên đường trời!
Thần các núi hôm mai buồn-bã:
Thấy ngọc lành chạy cả về kinh!
Thuở xưa, những buổi thăng-bình,
Thả rông gà, chó, ai dành phần ai?
Vua đời dưới, đạo trời đã hỏng!
Bắt phương xa nộp cống, xưng thần.
Anh-hùng từ đó hỗn dần!
Tranh dành, giằng xé, nhường phần nhau đâu!

· · · · · · · · · · · · · · · · · · · · · · · ·

CIII. — THÀNH-ĐÔ-PHỦ

Ngàn dâu ngả bóng tà
Soi rọi áo xiêm ta...
Ta đi non nước lạ,
Bỗng tới phương trời xa...
Chỉ gặp rặt người mới...
Bao giờ về quê nhà?
Sông lớn chẩy xuôi dòng...
Khách du ngày, tháng qua!
Đầy thành phường-phố đẹp...
Guối Đông cây rườm rà...
Ồn ào vẻ đô-hội:
Đàn sáo vang sanh-ca...
Đâu hơn đây được nữa,
Đập-nước ghé trông ra.
Chim sẻ đêm về tổ...
Nước cũ biết đâu là?
Trăng non lên chửa cao,
Các sao chen bóng ma!
Người xưa lưu-lạc vạn!
Than thở tội chi mà!

CIV. — BÓI Ở.

Cảnh trời như định để phần ta:
Mảnh đất đầu Tây suối Gột-Hoa.
Muốn rửa lòng sầu, đây sẵn nước!
Không vương lụy tục lúc xa nhà...
Một đôi cốc-đế chìm, chìm nổi...
Vô số chuồn chuồn lại, lại qua...
Muôn dậm sang Đông đường tiện lắm!
Thuyền con bên núi sẽ chèo ra...

CV. — XONG NHÀ

Mái trắng bên thành lợp mới xong.
Đồng xanh ven nước lối quen thông.
Ngàn chàm hát gió, che trời nắng.
Dò trúc đầm sương, đượm khói lồng.
Quạ tạm nương nhờ con mới nở.
Én về ríu-rít tổ dương công.
Người ngoài ví với nhà Dương-tử[2]
Lười tính, cười chê cũng mặc lòng!

CVI. — THỤC-TƯỚNG[3]

Đền thờ Thừa-Tướng dạo tìm chơi:

Thành Gấm trông sang trắc rợp trời!
Cách lá, oanh vàng hoài tiếng đẹp!
Rọi thềm, cỏ biếc tủi mầu tươi!
Đón mời ba dạo ghi ơn chúa.
Giúp-rạp hai triều hết dạ tôi!
Giặc đánh chưa tan, thân vội chết!
Anh-hùng đầm áo lệ muôn đời!

CVII. — THẰNG NGÔNG

Bên cầu Muôn Dậm một nhà tranh.
Đầm nước Trăm-Hoa uốn, uốn quanh.
Sen sớm mưa lồng hương thoảng thoảng.
Trúc non gió phẩy bóng xinh xinh.
Làm tiền các bạn thư chìm đắm!
Nhịn đói đàn con mặt bủng xanh!
Muốn chết! Cười mình ghê-gớm thật!
Càng già, càng quá thói ngông-nghênh!

CVIII. — LÀNG SÔNG.

Quanh làng một khúc sông trong.
Cuối Hè việc rỗi cả vùng thôn-quê.
Xà nhà, con én đi về...
Theo nhau mặt nước, đà le lượn lờ...
Giấy bồi, vợ vẽ bàn cờ...

Kim dài, con trẻ uốn vừa lưỡi câu...
Thân hèn nay ốm, mai đau,
Ngoài ba vị thuốc chẳng cầu gì hơn!

CIX. — LÃO QUÊ.

Trước dậu, bờ sông uốn, uốn vòng.
Cổng tre lệch-lạc mở ra sông...
Theo làn nắng-quái, thuyền buôn tới...
Xúm mặt đầm sâu, bạn lưới đông...
Gác Kiếm đường dài ghê hiểm-trở!
Đài Đàn mây mảnh ngán lông bông!
Thành thu tiếng ốc nghe buồn thảm...
Chưa báo quân Triều lấy quận Đông!

CX. — NHỚ NGƯỜI

(Quan Lại-Bộ Thôi Y)

Bạn rượu châu Kinh nhớ, nhớ ghê
Truất quan, chè-chén chắc ly-bì!
Chín-Sông bóng xế, nằm đâu đó?
Một-Cột chùa xưa, tỉnh mấy khi?
Uất-ức, thương thầm nào kẻ hiểu!
Thăm nom muốn nhắn chẳng ai về!
Cồ-Đường, Diệm-Dự qua chưa dễ,
Nhờ cậy sông đưa hộ lệ đi!

CXI. — LAN-MAN...
I

Mắt thấy ta đương bải hoải buồn,
Cái Xuân quán nước khéo du-côn!
Đã cho hoa nở tươi ghê gớm!
Lại dục oanh bay hót nỉ-non!

II

Trồng đào, trồng mận chính tay ta...
Tường thấp, nhà ta cũng kể nhà...
Trận gió Xuân kia, mày láo thật!
Đêm qua bẻ gẫy mấy cành hoa?

III

Tháng Hai đã vỡ! Tháng ba gần...
Già gặp Xuân còn được mấy lần?
Có chén, hãy mua vui trước mắt!
Không cùng trối kệ việc ngoài thân!

IV

Trông cảnh Xuân qua xiết mủi lòng!
Bãi thơm chống gậy bước đi dong!
Điên cuồng bông liễu bay đầu gió!
Đĩ-thõa hoa đào rỡn mặt sông!

V

Thảm trắng: hoa dương rải lối đi...
Tiền xanh: sen xếp lá bên khe...
Le non mợn mẹ nằm trên cát...
Trĩ nhỏ không người nấp gốc tre...

CXII. — ĐÙA ĐỀ TRANH SƠN-THỦY CỦA VƯƠNG TỂ

Mười ngày một con sông!
Năm ngày một viên đá!
Vẽ cấm không ai được dục dã!
Có thế bút chàng mới chịu hạ!
Này đây bức tranh các non tiên,
Vách trắng, thềm cao, treo đẹp lạ!
Ba-Lăng, Động-Đình buổi rạng-đông.
Đê Đỏ dòng, Ngân nước chẩy thông!
Hơi mây phất-phới bay theo rồng!
Lái đò, bạn lưới nấp trong bến....
Gió lướt cây núi, cồn sóng sông!
Thế xa, tài vẽ ai bì được:
Muôn dậm thu vào trong tấc thước!
Kéo sắc châu Tinh sẵn đấy không?
Cắt lấy nửa sông nước Ngô-Tùng!

CXIII. — BÀI CA ĐÙA VI-YỂN VẼ BỨC TRANH HAI CÂY THÔNG

Thông già đời có ai tài vẽ:
Tất-Hoằng đã già, Vi-Yển trẻ!
Tấc gang dứt bút nổi cơn dông!
Đầy nhà nhớn-nhác: thần-tình thế!
Đôi cây da nứt, rêu lổ-loang!
Cành cao sắt đúc, chằng dọc ngang!
Trắng phơi xương mục rồng, hùm chết!
Đen thẫm mây chiều sấm sét vang!
Gốc thông sư cụ ngồi im-bặt!
Mày dài, đầu bạc, lòng trần dứt
Để trầy vai phải, hở hai chân...
Trong lá, hạt thông rơi trước mặt...
Ông Vi! Ông Vi! Gặp nhau hoài!
Nhà tôi có tấm lụa Đông dài,
Quý hơn gấm, vóc của nhà ai!
Đã cho dặt sạch coi sáng ngời!
Cây thẳng xin ông phóng bút chơi!

CXIV. — XÓM BÊN NAM

Cẩm-lý tiên-sanh khăn mỏ diều!
Có vườn hạt dẻ kể chưa nghèo!

Thềm quen ăn sẵn, đàn dì dạn...
Khách đến chơi thường lũ trẻ reo!
Đò nhỏ: vài, ba, người trở lại...
Nước sâu năm, bẩy thước là nhiều!
Tre xanh, cát trắng chiều sông muộn,
Ngõ trúc nhìn nhau nguyệt mới treo...

CXV. — HỌA THƠ LÊN CHÙA « BẾN MỚI » CỦA BÙI ĐỊCH, GỬI CHO VƯƠNG THỊ LANG

Buồn tựa bên cây núi,
Ngâm thơ với lá vàng...
Đầm sâu bóng chim thoáng...
Chùa vắng tiếng ve vang...
Cảnh đẹp thường đầu bạc.
Chơi xa nhớ bạn vàng...
Thân già mê bóng Phật;
Ngủ đậu lại phòng tăng...

CXVI. — HẬN BIỆT

Bốn nghìn dậm, bỏ rơi thành Lạc!
Sáu, bẩy năm, tràn mãi giặc Hồ!
Bến lạ chết già: đường lối nghẽn!
Ải ngoài chạy mệt, cỏ cây thu!

Em xa, mây bạc ngày nằm ngắm!
Nhà nhớ, trăng thanh tối đứng xo!
Nghe nói Hà-Dương quân mới thắng.
Phá ngay Yên, Kế, cậy Tư-Đồ...

  1. a ă Chim phượng phi trái trúc không ăn, phi suối ngọt không uống.
  2. Dương Hùng, một danh-nho đời Hán.
  3. Khổng-Minh.