Thơ Đỗ Phủ/7
NHỮNG THƠ LÀM TRONG KHOẢNG THƯỢNG-NGUYÊN, BẢO-ỨNG, THI-SĨ Ở THÀNH-ĐÔ.
CXVII. — NĂM MUỘN
Cõi ngoài còn bối rối,
Năm muộn vẫn lông bông!
Bụi bốc mờ non Tuyết!
Kèn vang rậy bến sông!
Ai người gươm tuốt trắng?
Trời Đất máu tuôn hồng!
Giúp nước tiếc gì chết!
Nhìn quanh thấy mủi lòng!
CXVIII. — HỌA THƠ CỦA BÙI-ĐỊCH: LÊN ĐÌNH ĐÔNG CHÂU THỤC TIỄN KHÁCH, GẶP MAI SỚM NHÂN NHỚ NHAU GỬI SANG.
Gác Đông mai nở động hồn thơ
Cũng giống như Hà Tốn thuở xưa...[1]
Tiễn khách gặp kỳ xuân sắp tới...
Nhớ nhau này lúc tuyết đương mưa...
Không đưa năm muộn còn may đấy:
Có ngắm lòng quê lại nát nhừ!
Một gốc bên sông lần lượt nở
Dục người hôm sớm tóc thành tơ!
CXIX. — CHIỀU LÊN GÁC CHUÔNG CHÙA TÂY-AN, GỬI ANH MƯỜI BÙI-ĐỊCH
Núi Tuyết chiều hôm tựa gác trông...
Đánh chuông chú tiểu chuyện trò không!
Khói tuôn phố cạnh đương giầy biếc!
Nắng quái thành xa sắp nhạt hồng!
Ốm mãi buồn riêng thường lủi-thủi...
Bạn xưa dịp gặp chửa thong-dong...
Biết anh chỉ nghĩ thơ mà rạc!
Muôn việc chơi bời chửa rỗi công!
CXX.— ĐÁP THƠ « ĐẦU-XUÂN » CỦA DƯỢNG LÝ ĐÔ-ĐỐC
Gượng ốm ngồi trời sớm,
Xem thơ tủi cảnh xuân:
Buồn càng thêm vẫn ruột;
Già đã đến theo chân!
Đỏ nhuộm bông đào sớm!
Xanh về lá liễu tân...
Lòng quê sao khỏi bộn:
Bốn bể vẫn phong-trần!
CXXI. — KHÁCH ĐẾN
(Mừng có cậu Thôi Minh-Phủ sang chơi)
Quanh nhà Nam, Bắc sông xuân cả...
Chỉ thấy đàn âu sớm, tối qua...
Nay mới đón ông vào cửa lá,
Chưa từng vì khách quét đường hoa!
Một bình rượu cũ: ngồi nhà túng!
Vài món ăn xoàng: chạy chợ xa!
Cách dậu, gọi thêm ông lão tiếp,
Nếu ông cho phép chẳng nề-hà...
CXXII. — KHIẾN Ý...
Bóng mái dần dần xế...
Dòng khe lững-thững tuôn...
Thuyền xa đèn rọi nhỏ...
Cò đậu bãi vây tròn...
Mây khuất vành trăng mới...
Hương truyền cụm cúc con...
Trẻ thơ đêm gõ cửa:
Hàng xóm rượu vừa ngon!
CXXIII. — QUÁN SÔNG
Trong quán nằm phơi bụng,
Ngắm dài, ngắm vẩn-vơ...
Nước trôi, lòng sạch lắm!
Mây bốc, dạ nhàn như...
Hớn hở đời riêng thú.
Âm-thầm xuân sắp trưa.
Rừng xưa về chửa được,
Khuây khỏa mượn vần thơ!
CXXIV. — ĐÁNG TIẾC...
Già tới mong xuân chậm!
Hoa bay khéo vội vàng!
Trẻ trung thời đã lỗi!
Vui thú nghĩ càng thương!
Mượn Hứng câu thơ nhảm,
Khuây lòng chén rượu suông!
Cụ Đào[2] về sớm quá!
Nào kẻ gửi can trường?
CXXV. — MẶT TRỜI LẶN...
Neo mành vướng lại bóng tà...
Cảnh xuân bên suối mặn-mà với ai?
Vườn ai quanh bãi xanh tươi?
Thuyền ai tựa bến chơi-vơi khói chiều?
Đầy sân muỗi, rãn rập-rìu...
Tranh cành chim, sẻ eo-xèo trên cây...
Rượu ơi! Ai tạo ra mày?
Tưới vào một chén, tắt ngay muôn sầu!
CXXVI. — UỐNG MỘT MÌNH...
Rừng sâu chiều dạo bước.
Mở hũ một mình ngồi...
Tơ vướng ong nghiêng, ngửa...
Cành khô kiến ngược, xuôi...
Ngu-hèn nào phải ẩn!
Hẻo-lánh thế mà vui!
Vốn không mong võng, lọng
Đâu dám chuyện khinh đời!
CXXVII. — ĐÀI-ĐÀN[3]
Mậu-Lăng[4] dù lắm bệnh.
Người đẹp vẫn còn say!
Hàng rượu trơ nền đất![5]
Đài-đàn rợp bóng mây!
Quần là: mầu cỏ áy!
Mặt ngọc: bóng hoa bay!
Nào khúc cầu-hoàng[6] trước?
Im chìm bấy tới nay!
CXXVIII. — TRÊN SÔNG GẶP THẾ NƯỚC NHƯ BỂ, TẠM THUẬT VẮN TẮT...
Tính gàn trời phú: mê câu đẹp:
Nói chẳng kinh đời, chết chịu đâu!
Thơ, phú tuổi già thường mượn hứng,
Hoa, chim xuân tới chớ cưu sầu!...
Bè-sông tạm thế thuyền chơi mát!
Hiên nước vừa làm chỗ thả câu...
Đào, Tạ[7] vài tay sao kiếm được?
Khi chơi, khi viết, bạn cùng nhau.
CXXIX. — SÔNG RAY.
Sông đã hung-hăng rẫy,
Rừng còn tuyết, lũ thêm!
Gió gào rung đất chuyển!
Sóng bốc đạp trời chìm!
Cá, giải thân không chắc!
Thuồng-luồng tổ phải tìm...
Bể Đông ta vẫn thích,
Nhân tiện vượt buồm xem!
CXXX. — BÊN SÔNG ĐI MỘT MÌNH TÌM HOA.
Nào phải mê hoa cho đến chết!
Chỉ lo già tới chẳng còn xuân!
Cành sai đành lẻ tàn, tàn hết.
Nhị yếu xin cho nở, nở dần!
CXXXI. — GƯI ĐỖ-VỊ
(Nhà trong kinh của Vị ở phía Tây sông Khúc, cuối thơ có nhắc tới)
Nghe tin rộng phép tới Tân-châu,
Tưởng biết mong về vẫn đượm sầu!
Muôn dậm đọa đầy chẳng riêng chú!
Mười năm lận-đận trạnh thương nhau!
Phong trần nhìn mãi thêm gai mắt!
Sương tuyết sờ lên hẳn nặng đầu!
Lũy ngọc[8] đề thư lòng rối bét!
Chắc gì sông Khúc dịp chơi sau!
CXXXII. — BÀI CA NHÀ TRANH BỊ GIÓ THU LẬT TỐC.
Tháng tám thu cao, gió thổi lồng!
Tranh mái nhà ta bốc sạch không!
Bay qua lạch nước rắc bên đồng:
Mảng cao ngọn miễu giắt lung-tung;
Mảng thấp lều-bều nổi dưới sông...
Xóm Nam đàn trẻ khinh ta: già lật đật,
Nỡ ra ăn-cắp ngay trước mắt!
Lũy tre ngỗn-nghện cắp trảnh vào...
Khẳn tiếng, rát hầu, đành chịu mất!
Trở về tựa gậy thở dài vặt!
Chốc lát gió yên mây xám ngắt!
Man-mác trời thu vừa tối bặt!
Chăn vải lâu năm lạnh hơn sắt!
Con thơ nằm hỗn đạp rách tung!
Nhà dột!.. giường giường ướt như dặt!
Giọt mưa sình-sịch còn chưa dứt!
Từ hồi chạy loạn ngủ ít đi,
Ướt-át, suốt đêm khôn nhắm mắt!
Ước gì có được nhà rộng nghìn, muôn gian,
Che chung gầm trời dân rét đều hân hoan!
Gió mưa không núng thẩy bình-an!
Trời ơi! Bao giờ trước mắt ngất-nghểu toà nhà đó,
Riêng lều ta đổ chịu chết cóng cũng bõ!...
CXXXIII. — TRĂM LO NGHÌN NGHĨ
Nhớ tuổi mười lăm hãy trẻ con,
Khoẻ như bò-mộng, chạy lon-xon!
Táo, lê tháng tám đầy sân trước,
Ngày vạn lần leo, sức chẳng chồn!
Đến nay thấm-thoắt đã năm mươi;
Chỉ những nằm dài ít đứng, ngồi!
Cười gượng, chuyện suông chiều lão chủ!
Vây mình, trăm mối nghĩ lôi thôi!
Về nhà bốn vách vắng teo-teo!
Mụ vợ nhìn ta cũng mặt vêu!
Con dại biết chi là lễ phép:
Gào cơm bên cửa khóc y-eo!
CXXXIV. — ĐÙA LÀM BÀI CA HOA-KHANH.
Thành-Đô tướng giỏi có Hoa-Khanh.
Lũ trẻ học nói đều biết danh!
Như lửa! Như gió! Như cắt lanh!
Giặc thật đông quân, mới nhẹ mình!
Thứ-sử châu Miên diện áo vàng![9]
Khanh sang lập tức xác tan-tành!
Đầu lâu Tử-Chương đầm máu tươi!
Tay xách ném lại cho ông Thôi![10]
Họ Lý[11] trọng có hạng tôi đó!
Người bảo: Khanh ta giỏi nhất đời!
Đã bảo giỏi nhất đời,
Giữ Đông-Đô, việc ấy nhà vua còn gọi ai?
CXXXV.— CÂY TRẮC ỐM
Đồi cao có cây trắc...
Lá rợp tựa tàn che.
Mây, gió, thời may lắm!
Hùm, rồng, vẻ đẹp ghê!
Thẳng ngay, thần tựa bóng:
Khấn vái, dân đi về...
Ai biết bên trong gốc,
Nghìn năm lõi mục nhè!
Phải đâu không được đất;
Rễ mọc khắp tư bề!
Năm rét bỗng trơ-trọi!
Lá cành ngày ủ-ê!
Chín con chim phượng liệng,
Hót thảm: phải tìm đi!
Đục bọng gửi đôi trứng,
Vọ ta chừng thỏa thuê!
Khách từ xa-lạ đến,
Đứng ngắm lòng tê-mê!
Lặng nghĩ lẽ mầu-nhiệm:
Đời thôi có chắc gì!..
CXXXVI. — QUÍT ỐM
Rạng quít mọc coi mà chán ngắt:
Quả bé con, chua thật như chanh!
Vỏ ngoài kể cũng xinh xinh,
Múi trong bộp xác, ngon lành có đâu!
Lá, gió đập, dầu dầu chết nửa,
Sương tuyết lay chưa nỡ lìa cành.
Nghe đồn « tiên » chốn Ngọc Kinh
Tiệc bầy thiếu nó ra tình không vui!..
Nay giặc cướp cõi ngoài xâm-phạm,
Nhà vua còn phải giảm món ăn...
Ta buồn, trách các triều-thần...
Mùa mày mà mất: Trời gần không xa!
Nhớ năm trước đường qua Nam-Hải,
Bọn sứ-thần dàng vải nhọc-nhằn...
Núi rừng trăm ngựa chết lăn!..
Các người già cả tủi-thân đến giờ...
CXXXVII. — KHÔNG GẶP
(Gần đây không được tin Lý Bạch)
Tội nghiệp anh chàng Lý!
Lâu nay bạt tiếng hơi!
Đời đều toan giết chết!
Tôi nghĩ vẫn thương tài...
Mau lẹ tho, nghìn vận...
Bơ-phờ rượu một nai...
Núi Khuông phòng sách cũ,
Đầu bạc cố về chơi!
CXXXVIII. — NHÀ TRANH, TỨC SỰ
Tháng mười về xóm vắng...
Cây một nhận nhà nhất
Sợ gió, tre nằm lướt
Khinh mù thuyền vượt mau
Cò tìm cồn cát đậu.
Cá lượn đám dong vào.
Rượu uống quên buồn thật,
Không tiền mua ở đâu?
CXXXIX. — THEO ÔNG BẨY LÝ TƯ-MÃ, XEM BẮC CẦU TRE TRÊN SÔNG, XONG NGAY TRONG MỘT HÔM. NGƯỜI QUA LẠI KHỎI PHẢI MÙA ĐÔNG ĐƯƠNG RÉT LỘI NƯỚC
TẠM ĐỀ THƠ NGẮN GỬI ÔNG LÝ.
Gầy dựng cầu tre hắc mới xong:
Vén xiêm người khỏi lội qua sông.
Trời sương hạc trắng tìm đầu nhịp.
Bóng xế rồng xanh hiện giữa dòng!
Đề cột[12] thẹn tôi già nhỡ lứa.
Chở người mừng bạn gắng nên công
Tiệc vui cười chuyện nghìn năm cũ:
Đuổi đá bao giờ tới bể Đông?[13]
CXL.— ĐƯỢC THƯ CỦA TRƯƠNG THÚC KHANH, PHÁN-QUAN Ở QUẢNG CHÂU. NGƯỜI SAI VỀ GỬI THƯ THAY LỜI.
Đất lạ phương trời vắng
Quê nhà bụi giặc mờ!
Đèo trăng qua lối hiểm.
Châu Lửa[14] đựơc phong thư...
Mây khuất rinh quan tướng...
Đêm tìm thuyền khách thơ...
Gửi sang đôi mắt ướt:
Buồn đẩm lệ tương tư!
CXLI. — TRÔNG ĐỒNG
Cầu thông Muôn Dậm sông trong vắt!
Đồn đóng Ba-thành tuyết trắng phơ!
Bốn bể tìm em mây gió cách!
Bên trời gạt lệ mặt mày trơ!
Tuổi già cúng cả, cho đau ốm;
Ơn nước chưa đền chút tóc tơ!
Cưỡi ngựa ra đồng vơ vẩn ngẳm,
Cực lòng cảnh kém mãi ngày xưa!
CXLII. — TUỔI TRẺ
I
Ra ràng, én tổ bay, bay hết!
Kết quả, hoa vườn rụng-rụng thưa!
Các cậu áo vàng lại đây bảo:
Trước thềm nước chẩy, chẩy nhanh chưa!...
II
Kìa ai trên ngựa vẻ xinh trai
Nhẩy tót lên giường chễm chệ ngồi!
Tên họ không xưng ra phết lắm!
Chỉ tay bình bạc rượu đòi xơi!
CXLIII. — GIẤU VẾT...
Rậy trưa: nào có việc gì!
Việc gì chẳng có, nhà thì vắng tanh!
Dòng sông in bóng mái tranh...
Ánh tre lộn sắc xanh xanh nội ngoài...
Nghèo bền, mặc vợ cài-nhài!
Học hành dang dở, con lười mặc con!
Ước gì trăm tuổi say luôn!
Đầu không chải một tháng tròn chẳng sao!
CXLIV. — TẶNG HOA-KHANH
Đàn, sáo vang thành chẳng kể ngày,
Nửa vào gió bến, nửa lên mây!
Khúc này đáng chỉ trên Trời có!
Đời được nghe là cũng họa may!
- ▲ Hà Tốn có làm thơ « Mai sớm »
- ▲ Đào-Tiềm, Thi-sĩ đời Tấn.
- ▲ Nơi gẩy đàn của Tư-Mã Tương-Như.
- ▲ Quê-hương Tư-Mã Tương-Như, đây dùng để chỉ nhà tài-tử ấy
- ▲ Nơi mà Trác-Văn Quân bán rượu để vợ, chồng kiếm lời nuôi nhau.
- ▲ Tên khúc đàn của Tương-Như đặt ra và gẩy để ghẹo Trác-văn-Quân.
- ▲ Đào-Tiềm, Tạ-Linh-Vận, Tạ Huệ Liên, Tạ-Riễu, đều là các thi-sĩ có tiếng.
- ▲ Tên một ngọn núi ở gần Thành-Đô.
- ▲ Đoàn-Tử-Chương, thứ-sử châu Từ, làm phản Triều đình, đánh lấy châu Miên, tự xưng là Lương-vương.
- ▲ Thôi-Quang-Viễn, huyện-doãn Thành-Đô, chủ-tướng của Hoa Khanh (Hoa Kinh-Định)
- ▲ Họ vua nhà Đường.
- ▲ Tư-mã Tương-Như qua cầu, đề vào cầu hai câu: « không cưỡi xe bốn ngựa, không lại qua cầu này. »
- ▲ Tần thủy-Hoàng muốn bắc cầu đá qua bể Đông. Có các thần giúp sức cầm roi đuổi đá. Đá chạy chậm, đánh cho bật máu!
- ▲ Quảng châu khí hậu nóng, nên gọi là « Châu Lửa ».