Bước tới nội dung

Thơ Đỗ Phủ/9

Văn thư lưu trữ mở Wikisource



NHỮNG THƠ LÀM TRONG ĐỜI QUẢNG ĐỨC, THI-SĨ ĐI LẠI Ỡ TỮ-CHÂU VÀ LÃNG CHÂU.

CLXIV. — NGÀY XUÂN LÊN LẦU TỬ-CHÂU HAI BÀI:

I

Đoạn đường đi khó thế!
Từng gác đứng xa trông.
Mòn gót, chân lưu lạc!
Đi đời, tuổi trẻ trung!
Trống, kèn vang vẳng gió.
Thành, quách bóng trôi sông!
Én mới từng đôi một,
Như xưa tổ lại công...

II

Bên trời con mắt lầu cao
Thẩn thơ theo gió đưa vào vườn xưa...

Chiến tranh nay mới tạm thư.
Liễu trồng năm trước bây giờ còn kia!
Chơi bời đất Thục chán phè!
Bao nhiêu cảnh đẹp, mong về sông Ngô...
Buồm, chèo phải sắp con đò,
Huýt dài ta sẽ xuống đùa cửa kinh...

CLXV. — NGÀY XUÂN VIẾT ĐÙA TRÊU HÁCH SỨ-QUÂN

Ông anh ý-khí tốt ngang trời...
Hồi trước ngày vui vẫn thấy mời...
Ngựa nhỏ cỏ xanh vàng, lụa choáng!
Người xinh má đỏ phấn, son tươi!
Én về Tây hết, nước xuôi Đông,
Bỏ phí trời xuân xiết nhớ mong!
Vương, Triệu đôi cò da trắng mịn,
Xin trưng ra để mắt đời trông!..
Trăm dậm Thông-Truyền cách Tử-châu,
Sang chơi kẻo để dạ ta sầu!
Múa mang lại thấy hoa in mặt!
Say tỉnh còn xem gấm phủ đầu...[1]

CLXVI. — TIỄN ANH SÁU LỘ THỊ-NGỰ VÀO CHẦU.

Bốn chục năm trời bạn chí thân,
Nửa chừng tin tức biệt xa gần!
Biết nơi nào nữa ngày nhìn mặt?
Bỗng gặp nhau đây buổi tiễn chân...
Đỏ ối hoa đào sao đĩ-thõa!
Trắng bông tơ liễu khéo lần-khân!
Trêu ta rượu ngấm sầu đương bốc.
Vô-lại làm chi thế hỡi Xuân?

CLXVII. — GÁC QUAN CHÙA HƯƠNG-TÍCH HUYỆN BỒI THÀNH.

Sông lặng bên chùa đứng nước sâu.
Gác quan lưng núi dục cơn sầu.
Gió im, mây phớt ngàn xanh mỏng.
Nắng rợp, cây trùm lá đỏ mau.
Viện nhỏ, hiên quanh xuân vắng ngắt!
Cò bay, le lội, tối về đâu?
Các trời chắc ở ngoài giây rợ...
Đêm sẽ lần lên đỉnh gác cao...

CLXVIII. — MỪNG MƯA.

Nắng suốt cả mùa xuân,
Mặt trời đỏ như máu!
Cầy cấy đành bỏ cả:
Giặc dã lại đương ngậu!
Người Thục khóc rậy đất:
Sưu thuế chưa dễ lậu!
Sông Thương đêm qua mưa,
Rửa tội cho con Tạo!
Gốc lúa đã hơi mát;
Khí trời chưa hết nẫu!
Bao giờ thấy thái-bình?
Lòng này khỏi đau đáu...
Các núi trông mịt mờ,
Cơn mây đương hộn ẩu!
Roi đâu xua sấm, sét,
Ngô, Việt mưa cho thấu..

CLXIX. — TIỄN ÔNG MƯỜI-LĂM VƯƠNG PHÁN QUAN HẦU BÀ CỐ VỀ KIỀM-TRUNG

Bà cố theo con xuống cõi Đông
Mở căng buồm gấm gió trên sông.

Măng đầu thuyền đón xanh xanh ngắt!
Cá bữa ăn thường trắng trắng bông!
Cách mặt xiết bao tình mến tiếc,
Giúp đời riêng để ý trông mong.
Chén son rót mãi xin đừng lạ!
Tin-tức Kiềm-Dương chắc khó thông...

CLXX. — TIỄN VI-PHUNG LÊN LÃNG CHÂU LÀM LỤC-SỰ-THAM QUÂN.

Vận nước đương gian-nan.
Chiến tranh còn kéo dài.
Trăm họ khổ nheo-nhóc:
Quân lương cung đốn hoài!
Bọn quan cốt bóc lột,
Giáo dở lo chi đời!
Thuế má thật nhiều món.
Thương dân nào có ai?
Anh Vi tuổi còn trẻ,
Kiến thức vốn hơn người.
Nay gửi chức Tham-quân,
Mực thước rồi sẽ coi.
Cho bọn quan kẻ-cướp...
Vác mặt từ đây thôi!

Muốn chữa bệnh lở ghẻ,
Phải trừ quân mọt, dòi!
Gạt lệ đứng trên sông,
Trời cao dạ ngậm ngùi.
Cố gây chính-tích hay
Bỏ lòng mong của tôi!

CLXXI. — NGHỀ VẼ

(Tặng Tào-Ba Tướng-quân)

Tướng quân con cháu vua Ngụy Vũ,
Tới nay lui xuống làm trăm họ.
Anh hùng cắt, giữ, việc đã qua,
Văn-vẻ phong-lưu nếp còn đó.
Chữ viết trước học Vệ-phu-nhân[2],
Bực mình còn kém Vương Hữu-quân.[3]
Quên già, chỉ mải chăm nghề vẽ!
Giầu sang mây nổi, đây không cần!
Trong khoảng Khai-nguyên vua biết mặt,
Mấy lần vời đến điện Nam-Huân.
Trên gác Lăng-Yên mầu thuốc nhạt,
Hạ bút vẽ lại tranh công-thần.

Nào cờ trên lưng các tướng võ...
Nào mũ trên đầu các quan văn...
Ông Bao[4], ông Ngạc râu, tóc động.
Hùng dũng chẳng khác khi cầm quân!
Con ngựa Ngọc-thông của Tiên-đế,
Vẽ sai, các thợ nhiều vô kể!
Hôm ấy giắt tới dưới thềm son,
Phố xá như qua cơn táp rẽ!
Phán cho tướng quân rải tấm lụa.
Để ý, dụng công chăm chỉ vẽ.
Chốc lát long-mã đã hiện hình.
Muôn thuở ngựa thường đều mất vía!
Ngọc-hoa bỗng lên sập cao tót!
Trên sập, trước sân hai mà một!
Đức vua cười mỉm dục cho vàng.
Các quan coi ngựa đều sửng sốt!
Hàn-Cán theo học vẽ cũng khá:
Vẽ ngựa bề ngoài giống như lột!
Vẽ thịt nhưng không vẽ nổi xương!
Nỡ làm kỳ, ký tinh-thần nhụt!
Tướng-quân vẽ thực có thiên-tài.
Gặp người tốt cũng truyền-thần chơi...
Như nay xiêu-dạt vòng gươm-giáo.

Ngay lũ phàm phu cũng vẽ hoài!
Vận đen lại gặp phường mắt trắng!
Nghèo đến như ông không có ai!
Xưa nay những kẻ lừng danh tiếng,
Mấy lúc là không chịu lạc-loài!

CLXXII. — MỆT ĐÊM

Hơi trúc mát buồng ngủ,
Ánh trăng đầy góc sân.
Sao thưa khi ẩn-hiện,
Sương nặng giọt lăn-phăn.
Nằm nước, chim kêu bạn.
Bay đêm, đóm rọi thân.
Đêm lành hoài phí cả,
Muôn viễc buổi gian-chuân.

CLXXIII.— NGÀY CHÍN

Năm ngoái lên cao miệt huyện Thê.
Bến Bồi nay cũng vẫn xa quê!
Bám hoài tóc bạc đầu khôn gỡ!
Gặp mãi hoa vàng mặt cũng ê!
Vất vưởng nhờ người đường lối nghẽn!
Bơ-phờ trốn loạn tháng, ngày đi!

Rượu tàn nhớ chuyện mười năm cũ,
Đứt ruột con đường dưới núi Ly...

CLXXIV. — TRONG TIỆC VƯƠNG LÃNG-CHÂU KÍNH ĐÁP THƠ « TIẾC LY VIỆT » CỦA CẬU MƯỜI MỘT.

Muôn hang gió thổi ù-ù!
Nghìn trùng núi thẳm khí Thu mịt-mùng!
Lênh đênh thả chiếc thuyền bồng,
Ngoài thành đặt rượu trên sông tiễn người.
Tiệc vui nào rượu lâu dài!
Buộc nhau chi mãi cảnh đời gian nan?
Như rươi, quân giặc chưa tan!
Cùng-sầu còn nắm xương tàn là đây!
Lạnh trời bạn tặng áo giầy,
Chia tay ông cậu chua cay ngậm-ngùi...
Trời chiều trông với bãi ngoài:
Hạc vàng mất bạn lạc-loài kêu thương...

CLXXV. — BUÔNG THUYỀN

Đưa khách huyện Thương Khê,
Núi lạnh, mưa mờ-mịt.
Cưỡi ngựa sợ khi trơn,
Về thuyền cho đỡ mệt,

Xanh qua tiếc núi rừng...
Vàng tới kìa cam, quít
Hớn hở được yên thân,
Tự do sông chẩy xiết!

CLXXVI. — THẨN-THƠ

Bóng tà hồ khuất dậu.
Gió lạnh sẽ lùa hiên.
Bóng nhạn phương trời bặt!
Từng mây nửa núi lên...
Rụng mau ngàn lá ốm.
Thơm thoáng lớp hoa hèn!
Chốc lại trăng thu nữa
Thành Ba đượm lệ hoen!

CLXXVII. — HÁT NGAO TRÊN SUỐI HỌ NGHIÊM.

Đời loạn-lạc còn chưa yên hết,
Bước long-đong đói, chết chi thường
Kiếm-Nam ngày tháng đau thương!
Ngoài biên các tướng rặt phường kiêu-xa!
Ở không được, đi ra càng uổng:
Được miếng ăn, ngụm uống đấy thôi!
Anh-hùng xương đã mục rồi,
Biết thân, chí-sĩ tìm nơi lánh mình.

Phận bèo-bọt lênh đênh đây đó,
Nỗi không nhà sầu khổ hôm mai!
Trăng cao, sương nặng suối ngoài.
Truyện trò cùng bác nối lời thâu đêm.
Xuôi ngược mãi sức xem đã mệt
Đi vào đâu nào biết rồi ra?
Phục-linh sẵn gốc thông già,
Về ăn kẹ bác dễ mà lại hơn!

CLXXVIII, — ĐI TỪ LÃNG-TRUNG.

Hùm thiêng, rắn độc rình sau trước!
Suốt ngày đường thủy không làng mạc!
Mây Đông xát đát... Gió ào ào...
Cây núi rợp trời... mưa lác-đác...
Con đau, vợ ốm mong về mau,
Đá gấm, ánh thu thôi cũng gác...
Xa nhà ba tháng được tin nhà.
Trốn lủi bao giờ qua loạn-lạc?

CLXXIX. — CHÙA NÚI

(Cùng lên chơi với Chương Lưu Hậu)

Chùa quê nương vách đá,
Các tháp ngất từng trên,
Trăm Phật ngồi lố-nhố.

Mốc rêu khôn nhận nhìn
Thích-ca bụi bám đặc!
Điện trước may còn nguyên!
Như thấy rồng, voi khóc,
Huống chi lòng kẻ tin!
Sứ-quân[5] cưỡi ngựa đỏ,
Hô, hét từ Tây lên.
Trước bến đứng vơ vẩn,
Phất cờ yên dậm nghìn...
Sư già áo rách mướp,
Chùa đổ, chuyện thưa liền.
Ông gọi các người theo,
Tức thì làm sổ quyên...
Tôi biết cây đa-la[6]
Thường tựa bên tòa sen...
Trời, Phật tất vui sướng,
Yêu-ma không ghét ghen...
Nên suy rộng lòng ấy,
Thương lũ quân lính hèn!
Người cao tai-vạ lo...
Kẻ khó ngu dại quen...

Năm muộn, gió rách thịt!
Rừng hoang rét cả miền!
Làm người khổ biết bao!
Cớ ấy ai xui nên?

CXXC. — GẬY ĐÀO-TRÚC, LÀM TẶNG CHƯƠNG LƯU-HẬU.

Trúc mọc giữa sông, trên đá lũa;
Sóng biếc tưới, phun, tầm thước đủ...
Chặ gốc, róc da, như ngọc đỏ!
Tiên nước, thần sông tiếc nhăn nhó!
Ông-lớn Tử-Đồng[7] rỡ một bó...
Khách ngồi đều khen: của hiếm có
Thương ta già yếu, tặng đôi cây,
Theo bước kêu dòn dưới móng tay!
Đông-Nam lão lại muốn sang ngay!
Cưỡi sóng buông thuyền khắp đó đây!...
Đường vắng lo khi ma quỷ cướp!
Gươm thiêng tuốt bảo rắn rồng hay...
Nhân ta lại dặn điều này:
Gậy ơi! Gậy ơi! đời my sinh ra vốn ngay thẳng!
Xin chớ thấy nước, vội chờm-hớp mong hóa làm rồng[8]

Khiến ta chẳng được sức my giúp đỡ,
Bên hồ, đỉnh núi, tha hồ lui tới chơi dong!
Trời ơi! Hùm sói thịt người chừ, gió bụi lung tung!
Bỗng không mất gậy chừ, nhờ cậy ai cùng!

CXXCI. — SẮP SANG NGÔ, SỞ, LƯU BIỆT QUAN CHƯƠNG LƯU HẬU CÙNG CÁC ÔNG TRONG MẠC-PHỦ.

Vào ải Thục đã lâu biết mấy:
Mình già đi! Con thấy lớn lên!
Chỉn e chân thật thói quen,
Chén chè, chén rượu, xui nên hư đời!
Bạn say cũ rầy thôi xa hết!
Sau muôn người thìn nết, tới lui!
Xưa như cá thả sông ngoài!
Giờ như thân chó hỏa-tai khác gì!
Ở cũng được, đi thì cũng được:
Đâu mà không đất nước quê người?
Người quen mới, cũ chia đôi
Cho nhiều, cho ít cũng thời xin vâng!
Hồ Thanh-Thảo bỗng rưng nào tưởng
Sa vào tay này mảng thuyền bồng!
Quan Chương Lưu-Hậu có lòng

Tiệc bầy nhìn xuống giữa vùng liều cao...
Xe ngựa chực trước lầu sắp rạng!
Khách quan đều dưới trướng họp đông.
Kiện-nhi múa ngọn cờ hồng...
Vui này có lẽ nhớ trong một đời!
Ngàn Tây, bóng mặt trời đã xế.
Ngoài song, đàn di sẻ kêu vang.
Đường sông sóng gió chi thường!
Sấm reo ba thác xem tuồng dọa ai?
Chỉ lo nỗi đầy nơi giặc rậy!
Tụi áo xiêm lại thấy chạy dài!
Trung-Nguyên vắng bặt tăm hơi!
Nhà-vàng chẳng biết nay thời ra sao?
Mặc số phận, tìm vào đất Sở,
Qua Đẩu Nam, thăm thử vua Đông...[9]
Tiện người xin gửi thư cùng!
Gió mây đừng để nóng lòng đợi tin!

CXXCII. — LÍNH TRẨY.

Mười làng còn mấy mạng?
Nghìn rặng núi gần, xa...

Rậy đất nghe người khóc!
Quanh thành vắng tiếng ca!
Ngậm tăm, phường vác giáo...
Lạc bước khách không nhà!
Miền Thục đầy quân giặc,
Sao đây chuyện chúng ta?

CXXCIII. — CÓ CAM.

Lạc-Dương độ giữa bốn phương.
Thuế, sưu chuyên chở tiện đường thuyền, xe!
Thóc kho nghe nói mục nhè!
Cờ hoa chẳng thấy đi về bấy lâu!
Thành trì chớ cậy cao, sâu!
Non, sông dời, đổi, chắc đâu cơ Trời!
Cốt sao giữ lấy lòng người!
Kìa quân giặc, cướp vốn thời lương dân!...

CXXCIV. THƯƠNG XUÂN.

I

Lính đóng đầy thiên hạ,
Ngày xuân vẫn thấy tươi!
Miền Tây quân đánh mệt!
Kinh cũ giặc tràn hoài!

Quan ải ba nghìn dậm!
Oanh, hoa một trời...
Xe loan nhèm cát, bụi,
Hầu ngự biết ai người?
Nghiệp cũ chưa khôi-phục,
Đô xưa đã đổi dời..
Rồng, mây điềm ứng-hợp,
Xa ngóng lối Bồng-lai!

II

Sang Đông hồi ấy nghe đâu
Đám quân Thị-Vệ đua nhau chạy dài!
Thóc kho chia chẳng nhường ai!
Giáo, gươm trước trận thi tài... ném mau!
Giặc vào thẳng đến sân chầu,
Quan to, quan nhỏ giữ đầu không xong!
Nào ai là mặt anh-hùng
Thề lòng giữ lấy non sông nước nhà?
Thân hèn khóc với cỏ hoa...
Với trông lửa hiệu lập-lòa ánh xuân!
Vua, tôi mới biết tu-thân
Trời cho trị nước, yên dân còn vừa!

  1. Gấm thưởng cho con hát, cho ai thì phủ lên đầu người nấy.
  2. Vệ-Thước, người đời Tấn.
  3. Vương-Hy-Chi, học trò Vệ phu-nhân.
  4. Bao Quốc-Trung và Uất-Trì-Cung.
  5. Chỉ Chương-Lưu-Hậu.
  6. Một thứ cây dung lá dùng làm giấy chép kinh
  7. Chỉ Chương-lưu-hậu.
  8. Ý khuyên Chương chớ có phản triều đình.
  9. Nam-Đẩu, ứng vào địa-phận đất Ngô. Đền vua Đông ở đất Sở.