Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam kỳ/Phần thứ hai/VI

Văn thư lưu trữ mở Wikisource

VI

Công-nghệ của xứ Bắc đối với Nam-kỳ có quan hệ là thế nào? — Vấn-đề đem thợ vào làm. — Vấn-đề ấy vì đâu mà khó. — Nghĩ cách đem họ vào làm thế nào cho chắc chắn và lợi công-việc.

Phương-ngôn ta có câu rằng: « túng thì phải tính »; ấy công-nghệ của xứ Bắc mà sở dĩ khá, là tại « túng thì phải tính » vậy.

Trong khoảng mươi năm trở về, đây, công-nghệ của xứ Bắc mỗi ngày một khá thật, từ đồ dệt, đồ đồng, đồ khảm, đồ da, đồ sứ v.. v... nhất thiết đều chế-tạo có vẻ mỹ-thuật cả, đem so với cùng những đồ ấy chế ra từ mươi năm về trước, thì thấy tiến-bộ rõ ràng lắm. Thứ nhất là mỗi năm nhân dịp trong kỳ Hội chợ, hay là trong một cuộc bác-lãm nào, là những khi mà công-nghệ linh-tinh ở các nơi, đều tụ họp cả lại, chẳng có con mắt nhà kỹ-sư chuyên-môn gì, nhưng trông kỹ thì bao giờ ta cũng phải chịu rằng năm nay đã hơn năm ngoái, ấy là chưa phải làm bằng máy móc, mà còn theo cách-thức cũ, dùng khí-cụ xưa, chế-tạo ra được những đồ như thế giá đem ra bày ở trong thị-trường thế-giới, kể cũng là xứng đáng lắm vậy.

Tiếng thế, đồ xuất-cảng của ta mỗi năm hàng mấy triệu quan, nhưng sản vật chiếm đến 90 thành, thì đồ công-nghệ chế-tạo mới được 10 thành, nghĩa là vật-sản bán ra ngoài được nhiều mà đồ công-nghệ ít, vì những đồ ấy của ta dù có khéo thật đấy, song mới đủ để cho trong xứ dùng đỡ dùng đồ ngoại hóa được đôi tí mà thôi, chớ chưa có thể nào đem bán cho ngoại-quốc được. Vì sao?

Ta nên biết rằng: công-nghệ có hai thứ: một là công-nghệ nghĩ ra, một là công-nghệ bắt chước. Thứ công nghệ nghĩ ra ấy, thì lấy hóa-học và cơ-khí làm nguyên chất; nhất thiết đồ gì, không kể là to nhỏ, đều phải qua phòng thí-nghiệm rồi sang nhà máy, mới thành được thứ đồ, cho nên đồ gì chế-tạo cũng đến mực tinh-xảo, kiểu mẫu rất là dễ coi, lại được điều cốt nhất là nhờ vì cơ khí, thành ra phí công-phu ít, mà chế tạo được nhiều, cùng là nhờ cách vận-tải chắc chắn mau chóng, sự xuất-cảng nhân đó mà được phát đạt. Tức như là đồ chế-tạo của Âu Mỹ bây giờ, bày la liệt ở trong chợ thế-giới, đâu cũng phải dùng, là bởi những đồ ấy do trí sáng-tạo của họ làm ra, rất thích-hợp cho sự cần dùng của đời nay, cho nên họ đem đi đâu, cũng có chỗ tiêu-thụ được là thế. Đồ công-nghệ bắt chước, thì không như thế được. Thứ công-nghệ bắt chước, chỉ là rập khuôn của người ta làm nên, lại thường chỉ làm bằng tay, mà không có phương-pháp hóa học và cơ-khí, thì không kể gì là phí công-phu nhiều, thành ra trị giá phải đắt, mà nói ngay đến sự tinh khéo, chắc hẳn không bằng thứ đồ chế ở phòng thí-nghiệm và nhà máy ra nào. Đã bắt chước mà không bằng đồ của người ta, thì tài nào bán cho người ta được, lẽ ấy tưởng là rõ ràng lắm.

Công-nghệ của mình mới là công nghệ bắt chước. mà bắt chước chưa đến nơi, hay chưa khéo hơn đồ ngoài, chưa đem bán ra ngoài được là thế.

Bắt chước là một tính cách rất hay rất quý của người Bắc này, chính người Nhật cũng đã phải công nhận, vì mấy năm trước, đồ sơn của họ rất thịnh hành ở ta, thế mà bây giờ ta học lỏm ngay được. làm chẳng thua gì họ bao nhiêu, bởi thế họ phục lắm. Sẵn cái tính hay ấy, lại giữa lúc trong nước bị tràn lan những đồ ngoài, thì ta cứ việc bắt chước mà làm, để cho ta dùng. và tìm ngay chỗ tiêu thụ ở quanh trong nước mình, tưởng không phải là thiếu. Xứ Nam-kỳ tức là một mối hàng to nhất của công nghệ xứ Bắc vậy.

Ta đã biết rằng: xứ Nam-kỳ ta vốn là một xứ không có công-nghệ gì vừa dùng cả, cho nên bấy lâu, từ cái ăn mặc cho đến đồ thường dùng, nhất thiết đều mua đồ ngoại hoá; trong khi ấy, tuy công-nghệ Bắc đã nhóm lên rồi, nhưng người Nam chưa hề để mắt đến, duy có từ khi « tẩy chay khách trú » trở về sau, thì đã biết chuộng nội hoá, nghĩa là đã ưa dùng đồ Bắc. Thật thế, trước kia anh em ở trong Nam-kỳ ta, có thèm ngó tới the lượt của Bắc-kỳ đâu, thế mà đến nay, cửa hàng tơ lụa tầm thường nhất ở ngoài ta, mỗi năm bán vào Nam-kỳ cũng được 3, 4 vạn bạc, lại ta thử đi xem các nhà chế-tạo, hỏi họ làm ra bán cho ai, thì trong mười nhà đến chín nói rằng: « bán vào Nam-kỳ », xem thế đủ hiểu đồ Bắc tiêu-thụ vào trong Nam mạnh là thế nào, không kể gì đến những thứ đồ đắt tiền như đồ khảm, đồ gụ v...v... ngoài này thường bán cho Tây và một số rất ít người mình mới dùng, nhưng đem vào bán cho anh em trong Nam, đều chạy tất cả, vì cái đức « sài tiền » của anh em trong Nam đã có tiếng, quý mấy đã thích cũng dám mua; lại đến những thứ lặt vặt như giép Nhật-Bản, guốc Saigon, cái rổ, cái rá v...v... chở vào Nam-kỳ, có lẽ không chuyến tầu nào không hàng trăm kiện hàng như thế, chỉ tiếc rằng không có sổ thống-kế nào, nên không biết mỗi năm đồ Bắc chở vào bán trong Nam được bao nhiêu tiền, nhưng xem đại-khái cái hiện-tình, cũng đủ biết là phát đạt lắm vậy.

Ta nên chú ý rằng: đồ công-nghệ Bắc mà vào Nam được chừng nào, là đồ công-nghệ Tầu và một vài phần của Âu-châu đều có chịu ảnh-hưởng sâu-xa chừng ấy. Cứ xét mà xem: trước kia những hạng bình-dân trong Nam, hay mặc thứ vải mùi xám của Hoa-Kiều dệt ngay ở đó, mà bây giờ thông dụng vải ta và ít nhiều hàng tơ lụa Bắc; trước kia những thứ ghế mây, gọi là ghế tô-nê (chaise Thonet) thì trong Nam vẫn dùng thứ ghế ở Tây đem sang, mà ngày nay đã thông dụng ghế ấy của Bắc làm ra; trước kia đôi guốc cũng mua của Tầu, bây giờ đã thông dụng guốc Bắc; trước kia chỉ dùng giầy cườm, bây giờ đã ưa dùng giầy hạ (tức gọi là giầy ta) rồi, nhân thế mà sự dùng đồ ngoại-hoá, trong 10 phần, cũng đã giảm đi được một vài phần, biết đâu lâu dần không bớt được nữa. Đồ Bắc vào khiến cho đồ chế tạo của các cửa hàng ngoại-quốc càng thiệt-thòi, tuy bề ngoài chẳng có gì là xung đột nhau, nhưng nghĩ cho kỹ thì chưa chắc bề trong đã không có ý cạnh-tranh ngầm ngấm. Tác-giả khi còn ở Saigon, trong khi đi chơi ngẫu nhiên thấy một cửa hàng ngoại-quốc kia ở phố Catinat, đem bày một dãy ghế mây, có treo cái biển có mấy chữ: « Fabrication locale », nghĩa là đồ chế-tạo ở trong xứ, mà xem kỹ thì những ghế ấy, cái thì khuôn méo, cái thì mây thô, rõ ràng là đồ của người Bắc chế ra, sao cửa hàng này bày ra mà viết mấy chữ như thế, là có ý chiêu hàng, hay là có ý bêu xấu; nếu chiêu hàng thì tất bày thứ tốt đẹp hẳn hoi, bày những thứ thế kia, có lẽ là cốt bêu xấu, tức là muốn gièm hàng chế-tạo của ta vậy Xem thế, ví bằng các nhà công-nghệ mình, không bỏ cái tính cẩu-thả, là lúc đắt hàng thì hay làm liều, muốn bán tống đi được là thôi, vậy thì công-nghệ Bắc đối với trong Nam e có ngày thất-bại, cho nên bây giờ chế một thứ đồ gì, cần phải cho kỹ lưỡng. phải cho tốt đẹp. mới mong bán lâu dài được, chớ có tham lam giối trá không nên, mà phải biết rằng đồ chế-tạo của mình, trong khi chưa bán được ra ngoài, thì phải lấy Nam-kỳ làm chỗ tiêu-thụ mới được, có chỗ tiêu thụ rồi, sau khuyếch-trương ra mới dễ.

Duy có điều bây giờ còn hơi ngăn trở ở một chỗ: là sự vận-tải. Ví với ngày xưa, đường bộ thì trạm dịch, đường thủy thì ghe mành, mà ngày nay đã có tầu bể và hỏa xa rồi, ai dám bảo rằng sự vận-tải khó? Nhưng khó là bởi tự tình-thế ấy trong nước mình. Ta chẳng lạ gì rằng: đường vận-tải ở ta bây giờ, đường bộ từ Bắc vào Nam, thì chỉ nói việc giao-thông, chớ không nói việc vận-tải được; còn có đường thủy là nhờ tầu bể. Giá tầu bể mà có năm bẩy hãng gì, thì sự vận-tải chắc được mau chóng và rẻ giá hơn; đằng này độc-quyền chỉ ở một hãng, kỳ hạn đã lâu, thường khi đến mươi ngày hay nửa tháng mới có một chuyến, một chuyến ấy nhận chở bao nhiêu kiện hàng đó, thì đã có hạn, nhiều hơn không thể chở được, thành ra khi nào đến ngày gọi là « kỳ tầu », những người có hàng muốn gửi, đều tranh trước sợ sau, chậm chân một tí là đọng ngay lại, không thể gửi được, ấy là chưa nói đến sự có một vài điều tình tệ ở trong, những nhà có hàng họ gửi đi, vẫn lấy làm phàn nàn lắm. Tiền cước cứ tính theo thước khối, thay đổi khoảng từ 10$ 12$ hay 14 $ kể cũng không lấy gì làm đắt, nhưng là không đắt cho những thứ hàng to tát và có giá-trị mà thôi, chứ những hàng lặt vặt thì cũng kể là nặng; phương chi những hàng như đồ khảm, đồ gụ, hình thù to, nếu tháo ra được còn khá. thường có đồ nếu tháo ra là hỏng, mà phải đóng nguyên như thế gửi đi, thì công cước chuyên chở rất là nặng nhọc và tốn kém lắm. Lại những sự bảo-hiểm không được phân-minh, cho nên kiện hàng khi mang lên vận xuống, bị ẩm ướt mất mát, người có đồ thường phải chịu thiệt nữa. Đại-khái sự vận-tải khó khăn, chậm chạp, tốn kém như vậy thành ra đồ Bắc chở vào được đến trong Nam, cái giá phải gấp hơn chỗ gốc đến mấy từng: có thứ gấp rưỡi, có thứ gấp đôi gấp ba, không có chừng đỗi nào cả, nhân thế mà đồ Bắc cũng có tiếng là đắt. Vậy tưởng công-nghệ Bắc nên đem ngay vào trong Nam mà chế-tạo là hơn.

Vả chăng, công-nghệ cần thứ nhất là phải có nguyên-liệu, mà những nguyên-liệu ngoài Bắc dùng để chế-tạo các thứ đồ đem vào bán trong Nam ấy, thì trong Nam có đủ cả, nói hẳn ngay là không thiếu thứ gì cũng được, bấy lâu chỉ để dư, hoặc vào tay người ngoại-quốc dùng mất; nay nếu đem công-nghệ Bắc vào ngay trong Nam mà làm mà bán, thì một cái vấn-đề nguyên-liệu, quyết nhiên không lo thiếu: dệt thì có sẵn tơ ở Châu-đốc, Tân-châu, cói ở Rạch-giá, làm đồ gỗ thì trong Nam rất sản gụ và nhiều thứ gỗ quý, không thì dùng gỗ ở ngay Cao-Miên đó cũng gần; khảm thì rất sẵn ốc và đồi mồi ở Hà-Tiên và Phú-quốc, v.. v... thế nghĩa là không lo đến sự phải đem nguyên-liệu ở ngoài này vào mới làm được, mà chỉ lo đem thợ vào.

Cái vấn-đề « đem thợ vào » này rất là khó, cho nên các nhà công nghệ ta thí nghiệm mãi không thấy có thành công gì lớn cả. Mấy năm trước, tác-giả còn ở Nam-kỳ, thấy trừ bọn thợ giày thợ mũ là thợ ngoài này đem vào cả, thì tuyệt nhiên không thấy một xưởng công-nghệ của người Bắc nào cho xứng được cái tên, duy gần đây mới có nhà Tiến-Đức ở Haiphong đem thợ vào mở xưởng đóng đồ gụ, và nhà Chân-Thụy đem thợ vào làm ghế cói, thì còn có thể gọi được là đem công-nghệ vào đôi chút, nhưng nghe nói cũng không phát đạt gì, cái cớ hình như cũng tại khó đem thợ vào vậy.

Thợ ngoài này nhan nhản ra đó, thiếu gì mà bảo là khó? Vẫn biết không thiếu gì, nhưng chọn được người thợ giỏi giang, trung thành, chăm chỉ, thì cũng phải kể là hiếm. Vả chăng, muốn đem vào tận trong ấy, thì phải trả lương họ gấp rưỡi hay gấp đôi ngoài này, và chịu tiền tầu cho họ, sự ấy đã đành đi rồi, nhưng trước khi đem họ đi. ý hẳn cũng phải cho họ vay trước mỗi người ít nhiều tiền, hãy nói là độ 50$00, nào các nhà công-nghệ ta, có phải là được sẵn tư-bản gì lớn đâu, thế mà giá đem độ 30 người thợ vào, thì khoản tiền cho vay ấy đã tới 1500$ thêm tiền tầu mất ngoài 600$ nữa, ấy là mất hơn 2000$00, tưởng cũng là cái vốn của nhà công-nghệ ta đó. Nhưng mà không kể chi đến truyện ấy, vì muốn làm việc lớn, thì phải tốn tiền, vả chăng, số thợ muốn vào Nam-kỳ bây giờ cũng nhiều, thì sự kén chọn tưởng cũng dễ, còn đến như sự phải cho họ vay tiền trước, thì cũng là cái lệ tự nhiên, vậy thì khi ở ngoài này, mà muốn đem thợ vào, cũng là việc dễ, duy chỉ sợ có lúc đem họ vào rồi, thì họ đối với công-việc của mình, có quan-hệ to lắm, vậy xử trí thế nào, cho họ tận thành tận chức với mình, ấy mới là một điều khó vậy.

Thợ của mình hễ anh nào làm được việc, mà ông chủ phải ỷ làm tay chân đó, thì hay có tính « khủng khỉnh » khó chiều lắm, mấy ông chủ biết thế mà vẫn phải chiều họ, vì họ có quan hệ đến sự lợi hại của mình, đã có ông nói rằng: « tôi phải chiều thợ như ông vua con của tôi », tưởng không phải là nói quá. Ở ngoài này, là chỗ làm gì cũng sẵn thợ, vậy chẳng mướn đứa ấy thì mướn đứa khác, mà họ còn thế, nay đem họ vào Nam-kỳ, là nơi chỉ họ là thợ mà thôi, nếu thất ý họ một tí, mà họ bỏ đi, thế là công-cuộc của mình, đang tiến-hành bao nhiêu, cũng phải đứng dừng ngay lại, có khi đến nguy, vì bọn thợ muốn phá công-nghiệp của ông chủ thì rất đễ, chỉ « bỏ việc mà thôi » là đủ. Tuy đôi bên khi đầu có giao kèo hay là giấy cam-đoan với nhau, nhưng miếng giấy ấy không đủ tin được, phương chi lại cũng không phải thật là giấy giao-kèo cho hẳn, bởi không phải làm bằng cách chính-thức, nghĩa là không có pháp-luật và chính-trị can thiệp nào, mà chỉ viết bằng miếng giấy lộn qua loa mấy chữ, gọi là có truyện, bởi thế sau xẩy ra việc gì, đem những cái đó ra thi-hành khó lắm, Chẳng qua đôi bên chỉ lấy lương-tâm với nhau, mà lương-tâm của bọn thợ như thế đấy. Họ đang làm với mình, bỏ đi đâu? Đi làm với chỗ hơn độ 5 hào hay một đồng bạc lương, vì bị xui giục, bị cám dỗ, nên mới sinh ra trở lòng làm hại cho các ông chủ, nông nỗi như thế, đối phó có phải là dễ đâu.

Lại còn vấn-đề đem thợ đàn bà vào nữa.

Trong công-nghệ, có nhiều thứ phải cần đến tay chân đàn bà mới được, hãy nói như nghề dệt. Nhiều người biết thừa đi rằng: trong Nam-kỳ bây giờ dùng the lụa của Bắc nhiều, mà cứ ở ngoài này gửi vào, phải bán mỗi cái áo đắt mất hai ba đồng bạc, vì tiền thuế má công cước nặng, nay giá đem ngay thợ đàn bà ở ngoài này vào trong ấy dệt thì tiện hơn, nhưng chưa ai làm được, là bởi đem được thợ đàn bà vào là khó quá, một là không thể nói truyện ký giao kèo được với họ, hai là phải làm sao giữ gìn được đức-tính của họ, thì mới khỏi lỡ việc của mình, ba là đàn bà không thoát-li được cái vòng gia-đình mà đi dễ được như đàn ông. Không đem được thợ đàn bà vào dệt, là một điều đáng tiếc lắm, vì trong Nam-kỳ cũng sẵn tơ, mà bấy lâu cứ bán cho mấy chú Hoa-Kiều đem về Tầu dệt hàng và bán cho mình mãi.

Xét lại, đem được thợ vào và giữ được họ làm việc với mình cho lâu dài chăm chỉ, thì thật là một sự khó khăn, các nhà công nghệ ta đã phải chịu công-nhận như thế. Nhưng vì đâu mà sinh sự khó khăn, tưởng không phải là không có cớ.

Thứ nhất là cũng tại họ xa gia-đình. Gia-đình ở người mình, thật làm trung-kiên cho mọi việc hay dở có ảnh-hưởng ở đó mà ra lắm. Phương-ngôn có câu rằng: « Xẩy nhà ra thất nghiệp », thất nghiệp nghĩa là « hư thân » đi, thì ta thấy ở bọn thợ ta rất hợp. Thật thế, họ xa gia-đình, không có ai đe nẹt khuyên răn, lại đến ở một chỗ phồn hoa như đất Nam-kỳ, càng dễ khiến cho họ nuôi cái tính kiêu-căng và liều lĩnh lắm, thứ nhất là họ không biết lấy phận-sự, và giai-cấp của mình là người thợ mà tự xử, thành thế ra họ hại đã đành, mà người chủ đem họ vào cũng có hại nữa. Nhiều người đã nghiệm ra rằng: họ vào trong ấy thì sinh ra ăn chơi quá, thường chiều mát ở Saigon ta thấy bọn người lũ năm lũ ba, ăn mặc rất mực xa hoa, xe cao xu phóng khắp mọi chỗ, hỏi ra thì mới biết đấy là mấy ông thợ người Bắc. Ai chẳng biết cái khoái-lạc về vật-chất ở đời nay, không thể chia giai-cấp, không thể ai cấm ai, nhưng tưởng vượt phận mình, thì tưởng có khi sinh lụy. Quả nhiên, sau cuộc chơi mát ấy rồi, mấy ông thợ ấy mới rở ra nhiều trò khác: đua nhau đánh bạc, thuốc phiện, trai gái v... v... suốt đêm rồi ngày mai về làm việc, mắt nhắm mắt mở, đụng đâu hỏng đó, ngày ấy ngày khác, chơi bời lãng phí thành ra cái tật quen, chỉ mong chóng xong việc để đi chơi. chẳng thiết gì cả. Khi vung tay quá, đâm nợ nần túng bấn, mới vay tiền chủ, được ra thì thành ra cái nợ chất nợ chồng, không bao giờ gỡ nổi, không được thì sinh sự, bỏ việc mà đi: có người đi còn kiếm được chỗ khác làm ăn, có kẻ đi bơ vơ chẳng ai dùng đến. Đại khái cái tình cảnh ấy, nếu có người nhà người cửa họ ở gần thì có đâu đến nỗi chơi bời, đến nỗi mất việc, đến nỗi bơ vơ?

Thứ hai là tại các ông chủ không có tình liên-lạc. Cái nhà công-nghệ ta ngoài này đem thợ vào làm, được một điều đáng khen, là nuôi thợ ăn ở trong nhà mình, tình chủ thợ nhân thế có bề thân thiết, nhưng chỉ tiếc trong các ông ấy với nhau, không thấy có tình liên-lạc, chỗ khuyết-điểm ấy, ai cũng trông thấy rõ ràng lắm. Xét cái tâm lý của nhiều ông, hình như cho xứ Nam-kỳ dễ làm ăn như thế này, mà mình mở ra một nghề gì, thì chỉ muốn một mình chiếm lấy độc-quyền mà thôi, không muốn cho ai cùng làm cái nghề ấy mà phân lợi với mình nữa, ấy cái tình không liên lạc bởi đó mà ra. Tác-giả xin kể một câu truyện nhỏ này làm chứng. Ở phố Catinat, có nhiều cửa hàng bán mũ của người Bắc, trong đó có một ông A, một ông B. (người thuật truyện không nỡ nói tên, tức là để bảo toàn danh-dự cho các ông ấy) cạnh-tranh nhau một cách con nít quá. Nguyên có một thứ dạ lợp mũ ở bên Tây mới sang đâu vài trăm thước, mỗi thước giá đắt tới mười mấy đồng, vậy ông B ít vốn, chỉ mua dăm thước một về làm, hết rồi lại mua, ông A giầu có, bỏ tiền ra mua hết cả mấy trăm thước ấy về chất đống ở nhà, tức là để cho ông B không mua đâu được dạ ấy, thì không làm được thứ mũ ấy cùng với mình nữa. Trong khi công-nghệ Bắc mới nhóm lên ở Nam-kỳ, mà cái lối cạnh-tranh của phần nhiều ông ấy, đại khái như thế cả, gọi là cái lối cạnh-tranh tiểu-nhân, tưởng cũng không oan. Các ông lại còn có cái lối cướp thợ của nhau nữa; sự đem thợ vào khó khăn thế nào, trên kia đã nói, muốn tránh sự khó ấy, cho nên thường ông này chờ ông kia đem thợ vào rồi, tìm cách cám-dỗ thợ về với mình, thế là không tốn kém nhọc nhằn gì mà được thợ làm việc, hay là tìm cách nói gièm, khiến cho bọn thợ phải biến tâm mà phản chủ. Ôi! Tình-tệ còn nhiều, nói không thể hết được Bọn thợ cũng có con mắt tinh, thấy bọn chủ đối với nhau như thế, thì lại càng làm cao già, trễ nải công-việc, vòi vĩnh lôi thôi, ví bằng các ông chủ có tình liên-lạc với nhau, thì đâu họ lại có sinh sự như thế được.

Nay, muốn đem công-nghệ Bắc vào trong ấy mà làm, thì một sự dưỡng dục được bọn thợ là khó nhất, vậy tưởng phải tìm phương-pháp nào cho khéo, mới mong có thành công, lấy sự-thế bây giờ mà bàn, nghĩ cũng có hai cách sau này là phải.

Trước hết, khi đem thợ vào làm, thì sự phải kén chọn lấy những thợ giỏi giang, đứng đắn đã đành rồi, thế mà sau vẫn thường thấy xẩy ra những nỗi bất tiện như trên kia, không biết thế nào mà lượng trước, cho nên giá ông chủ công-nghệ làm sao cho vợ con hay thân-nhân họ cùng đi, là một điều hay lắm.

Tiền lương ít nhiều không đủ giữ nổi họ, vì họ còn có chỗ nhiều lương hơn, nghĩa lý phải chăng không đủ cảm được họ vì họ là người vô học, vậy bây giờ ta lấy cách gián-tiếp buộc họ là buộc bằng gia-đình, có dễ là kế diệu hơn cả, đã có nơi thí-nghiệm như thế có hiệu-quả lắm rồi. Tại Rạch-giá, có một cái đồn-điền toàn người Bắc làm, ông chủ điền ấy cho mỗi người cấy chia ba mẫu mỗi hạn độ 3 năm, hết hạn người này muốn về thì ông chủ ruộng tìm cách đem vợ con ở ngoài này vào cho hắn, lập thành gia-đình, thành ra buộc chân, mà không còn điều tưởng-vọng gì nữa, chỉ một mực làm ăn mà thôi.

Nếu làm được như thế, thật có lợi cả cho họ, và lợi cả cho mình, vì vợ con hay thân-nhân họ cũng là nhân-công cả đó, có khi giúp đỡ được việc cho chồng, hay là lợi-dụng bọn này vào việc khác, thí dụ như nuôi tầm dệt cửi v.. v... lại càng tiện việc lắm. Được thế, mà có khi bọn thợ nhân đó lập được địa vị. mưu được sản-nghiệp về sau cũng nên. Bọn người Bắc vào Nam trước hết, là bọn người do ông Schneider đem vào, mà bây giờ đều thành như người có căn cước ở trong ấy, lại lớn nhỏ đều có sản-nghiệp cả, ấy là một chứng cớ vậy.

Sau hết, các ông chủ công-nghệ phải có hội liên-hiệp với nhau mới được. Phải có thế, tức là để khích tiến nghề nghiệp của nhau lên, giữ thể-thống đối với bọn thợ, lòng tín-nhiệm đối với khách mua hàng, cùng là cái giá-trị của đồ chế-tạo mình bao giờ cũng có chừng mực, đừng nên thừa lúc người trong Nam đã chiếu-cố đến mình, mà có lòng tham bán của giả lấy tiền thật, chắc không được bền. Không cần xem đâu xa xôi, hãy xem mấy nhà công-nghệ Hoa-Kiều ở ta, nghệ gì họ chẳng có hội liền-hiệp của nghệ ấy, để gắn bó bênh vực cho nhau, cho nên cùng một thứ đồ ấy ở hàng này hàng kia, không bao giờ ta thấy tốt xấu cách nhau xa, giá cả cách nhau xa, mà cũng chẳng bao giờ có cái lối gièm hàng và cướp thợ của nhau như ta vậy. Tác-giả đã từng đem cái tình-hình công-nghệ của người Bắc ở trong Nam để phô-trương với một người Hoa-Kiều ở Chợ-Lớn. tức là có ý dò cái bụng phán-đoán của họ ra sao. Người này nói: « Các ông nên biết người Việt-Nam chưa bỏ nỗi cái tính ưa « đồ Tầu » đi được, nay các ông định đem « đồ của mình » thế vào, thì tất đồ ấy phải tốt, phải rẻ, thế mà xem cái hiện-tình công-nghệ của các ông trong này bây giờ: đồ chế tạo thì quyết nhiên không phải chúng tôi không cạnh-tranh được, còn thợ, thì chúng tôi chỉ dử tiền là cám dỗ được họ, các ông chủ công-nghệ, thì chúng tôi chỉ dùng kế nhỏ mà li-gián là tự làm hại nhau ngay..... » Bằng ấy lời đủ biết họ hiểu rằng mình không có cái nghĩa « đồng nghiệp liên đái » vậy.

Xem hết cái sự-thế như vậy, thì các nhà công-nghệ ta muốn kinh-doanh trong Nam-kỳ, có nên không liên lạc để bênh vực giúp đỡ nhau không? Nếu không, thì không những là bị người ngoài thừa cơ ám hại, bọn thợ thừa cơ khinh nhờn, mà đồ chế-tạo ngày một kém suy, khách mua hàng ngày mất tin cậy, thì công cuộc tất nguy. Làm một công-cuộc gì, sự thành bại vẫn biết là việc thường, nhưng đối với nền công-nghệ Bắc mới hay là sắp xây dựng ở trong Nam, thì một công-cuộc nguy, cũng có quan-hệ đến đại-cục nhiều lắm.

Tác-giả dám chắc rằng: nền công-nghệ Bắc lập ở trong Nam thế nào cho chắc chắn vững vàng, có thế bành-trướng ra được, thì công-nghệ của Hoa-Kiệu, và ngay đến đồ chế-tạo của ngoại-quốc nữa, cũng chịu ảnh-hưởng sấu xa lắm vậy.