Hoán-điệu áp-vần
Trong bài hát có cước-vận, yêu-vận; cước-vận là vần ở dưới chơn hết câu; yêu-vận là vần ở lưng chừng đang dở câu; hoặc đương vần trắc hoán điệu sang vần bằng, hoặc đương vần bằng hoán điệu sang vần trắc. Nay xin lấy chữ (c) thế cho cước-vận; chữ (y) thế cho yêu-vận; vần bằng thì dấu chữ (b); vần trắc thì dấu chữ (t); thí dụ như sau này:
Bài ca nhàn tản
1° | — | Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy? (c-t). |
2° | — | Cảnh phù-du, trông thấy (y-t) cũng buồn cười! |
hoán điệu sang (c-b) | ||
3° | — | Thôi công đâu, rước lấy sự đời, (c-b) |
4° | — | Tiêu khiển mượn một vài (y-b) chuông lếu láo. |
(hoán điệu sang c-t) | ||
5° | — | Đoạn tống nhứt sanh duy hữu tửu,[1] (c-t) |
斷 送 一 生 惟 有 酒 | ||
6° | — | Trầm tư bách kế bất như nhàn.[2] (hoán điệu c-b). |
沈 思 百 計 不 如 閒 | ||
7° | — | Dưới rèm thưa, thấp thoáng bóng Nam-san (c-b), |
8° | — | Ngảnh mặt lại cửu-toàn (y-b) coi cũng nhỏ. |
(hoán điệu c-t) | ||
9° | — | Giạo trời đất cổ kim, kim cổ, (c-t) |
10° | — | Mảnh hình hài, không có, (y-t) có không. |
(hoán điệu c-b) | ||
11° | — | Lọ là thiên-tứ, vạn-trung. (c-b) |
Bài thí dụ trên này, cả thẩy 11 câu: câu thứ 1 mở đầu 7 chữ; rồi đến câu thứ 2 tám chữ; thứ ba lại bảy chữ, thứ 4 tám chữ; thứ 5, 6 thì dẫn hai câu thơ thất-ngôn gióng nhau; thứ 7, 8 hai câu tám chữ; thứ 9, 10 hai câu bảy chữ; cuối cùng buông thổng một câu sáu chữ; đó là lối đặt câu đại khái như vậy. Còn như áp-vần thì yêu-vận cước-vận, hoặc bằng, hoặc trắc, cũng tùy điệu hoán-vần đặt sao cho êm ái là được, không có câu-nệ như vần thơ lắm.