Trang:Co xuy nguyen am.pdf/77

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 70 —

Phú cũng chẳng ra tàu ra mán; theo anh em: Tắc-kiến, phù-kỳ.[1]
Sách gọi là có cổ có kim; đủ lề lối: Sĩ-văn, cẩn-đối.[2]
Đóng lều kín mít, nhứt định ngồi dai;
Xe sáp thẳng gang, cố tình viết tối.
Những e-ấp, chửa mang mình-ốc nổi; lại ra sự giắt tay trẻ xuống giếng, ngấp nghé làm gà.
Toan kéo-co trả nợ tổ-tôm thua; khéo dơ tuồng đơm đó cá trên cây, kiếm ăn như rái.
Lúc nộp quyển hòm đà đóng khóa; van lại-phòng tiếng nhỏ, tiếng to.
Khi ra trường trời đã quá canh; gọi đầy-tớ ấm-a, ấm-oái.
Buồng nhà chọ, lúc thở dài vuốt bụng; những mừng quyển ấy đủ là may.
Ghế cô hàng, khi vắt tréo rung đùi; lại khoe văn kỳ này cũng lợi.
Lúc hẹp dạ, bàn dầy bàn mỏng: Nhờ lượng quan-trường rộng tay bút, cuối bảng chẳng từ.
Khi cả gan, nghĩ quẩn nghĩ quanh: Họa là trong quyển có câu thần, thủ-khoa cũng phải.

Đến khi: Ghế chéo gián lọng xanh; bành voi giương ống gọi.
Số cử-nhơn xướng đã đủ lần;
Dòng niên-hiệu đọc đà đến cuối.
Thầy đồ nọ, nét mặt tế tổ ngoại;[3] áo quàng vai đi tất-tả tất-tơi
Bác tú kia, đầu gối tranh trưởng-nam;[4] nón cắp nách chạy hớt-hơ hớt-hởi.
Nào những lúc ra trường đoạn: Xêng-xang hàng phố, giầy kéo lê. quần chấm gót, dịu-dàng thay tốt bộ cử-nhơn!
Nào những khi xướng danh rồi: Lủi-thủi cửa trường, khăn bỏ giọt, áo giắt lưng, lơ-láo tưởng như hình chú-lái!


  1. Là chữ lề lối phú.
  2. Là chữ lề lối văn sách.
  3. Cháu rể tế tổ-ngoại nét mặt nhâng-nháo.
  4. Tranh ngôi trưởng-nam khi vào tế đầu gối run cằm cặp.