Trang:Co xuy nguyen am.pdf/76

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 69 —

Tràng thiềm[1] là cửa cân đai; cao gối mau chơn không kẻ đợi?
Công-danh gặp hội; đường thanh-vân sấn bước toan trèo.
Phú quí nức lòng; cành đan-quế giơ tay quyết vói.
Tấc gang chực vin rồng tựa phụng; mượn phấn vua, trả nợ bút nghiên xưa.
Đêm ngày chăm mài sắt nên kim; nhờ đạo thánh, đền công đèn sách lại.
Cửa hiền rộng mở: một nền Cức-viện,[2] có quả, có hoa,
Trận bút tranh đua; ba đợt Vũ-môn,[3] lẫn trê, lẫn truối.

Có một người: Mặt mũi khôi ngô; râu mày nhẵn nhụi.
Biếng học, siêng ngủ, sách vở mập mờ;
Non tập, già chơi, văn chương sốc nổi.
Đến khoa-thi, nửa sợ nửa mừng;
Tính nhơn-sự, một may một rủi.
Mừng mặt đủ buồng-cau, bánh thuốc; đồ vào trường, rất mực phong lưu.
Theo chơn nhiều đầy-tớ, học-trò, chốn tạm chọ tìm nơi rộng rãi.
Chứng hay ngủ, sửa sang sắp sẵn: Lều một vác, chiếu một ôm.
Đồ phụng thân, mang xách nặng nề: Nước đầy bầu, giầu đầy túi.
Thuốc Bách-tính, đóm diêm, điếu ống; thông mồi này, đặt mồi khác, văn được như thuốc ắt hẳn hơi-dài.
Chả ba-họ, cơm-nắm, ruốc-bông; ăn một miếng, nghĩ một câu, văn được như cơm can gì ý-nỗi[4].
Văn làm, đặc như bí, dai như đỉa; dò lều này sang lều nọ, vi nhứt vi nhì.
Sách quên, tối như hũ, mờ như đêm; nghe câu được với câu chăng, viết chầy, viết cối.
Đệ nhứt trường, làm bài tinh-nghĩa; lần theo tám vế rõ ràng.
Hai trăm chữ, điểm đủ tân-qui; tùng tiệm hai tờ ngắn ngủi.


  1. Là chốn trường thi.
  2. Trường thi rào gai xung quanh, gọi là Cức viện.
  3. Vũ-môn là cửa cá vượt hóa rồng, ví như trường thi.
  4. Đoạn văn nào còn thiếu ý, thì phê hai chữ « ý nỗi » nghĩa là chê còn đói ý.