Bước tới nội dung

Trang:Kinh Thanh Cuu Uoc Va Tan Uoc 1925.pdf/141

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
13 : 49
14 : 11
LÊ-VI KÝ

bằng da; 49 nếu vít đó màu xanh-xanh hay đỏ-đỏ, trên quần-áo hoặc trên da, trên canh hoặc trên chỉ hay là trên món nào bằng da, thì phải coi như bịnh phung, đem đến tỏ cho thầy tế-lễ. 50 Thầy tế-lễ sẽ khán cho, và giam món có vít ấy trong bảy ngày. 51 Qua ngày thứ bảy, thầy tế-lễ khán vít lại; nếu vít ăn lan trên quần-áo, trên canh hay chỉ, trên da hay trên món chi bằng da, thì phải coi như bịnh phung ăn luồn; món đó bị ô-uế. 52 Vậy, người phải đốt quần-áo, canh hay chỉ bằng lông chiên hoặc bằng gai, hoặc các món chi làm bằng da, ở trên nó mà đã bị vít, vì là một bịnh phung ăn ruồng: phải thiêu đi.

53 Còn nếu thầy tế-lễ khán, chẳng thấy vít đó ăn lan trên quần-áo, trên canh hay trên chỉ, hoặc các món chi làm bằng da, 54 thì người hãy biểu họ đem giặt món có vít đó đi, rồi giam nó một lần thứ nhì trong bảy ngày nữa. 55 Khi giặt rồi, thầy tế-lễ sẽ khán lại, nếu vít đó không phai màu và cũng chẳng ăn lan ra, thì món đó là ô-uế: ngươi hãy đem thiêu đi, vì là một thứ vít mốc ăn vào bề trái hay là bề mặt. 56 Còn nếu sau khi giặt rồi, thầy tế-lễ thấy vít đã tái, thì phải gỡ nó khỏi quần-áo, da, canh hay chỉ đi. 57 Nếu vít mốc còn ló lên lại trên quần-áo, trên canh hay chỉ, hoặc trên món chi bằng da, thì phải coi như một vít phung, và thiêu món có vít đó đi. 58 Nhưng quần-áo, canh hay chỉ, hoặc món nào bằng da mà ngươi đã giặt, và vít đã lặn rồi, thì hãy đem giặt một lần thứ nhì nữa, đoạn sẽ được tinh-sạch. 59 Đó là luật-lệ về vít lên mốc như phung trên quần-áo bằng lông chiên hay bằng vải gai, trên canh hay chỉ, hoặc trên món chi bằng da, chiếu theo luật-lệ đó mà phải định là tinh-sạch hay là ô-uế.

Lễ làm sạch bịnh phung

141 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: 2 Nầy là luật-lệ cho kẻ phung về ngày nó được sạch. Người ta sẽ dẫn người phung đến thầy tế-lễ; 3 thầy tế-lễ sẽ ra ngoài trại-quân mà khán bịnh cho. Nếu vít phung của người bịnh lành rồi, 4 thì về phần người phải được sạch, thầy tế-lễ sẽ truyền đem hai con chim vẫn sống và tinh-sạch, cây hương-nam, màu đỏ sặm, và nhành kinh-giới. 5 Thầy tế-lễ biểu cắt cổ một trong hai chim đó trong chậu sành, trên nước chảy. 6 Đoạn, bắt lấy chim còn sống với cây hương-nam, màu đỏ sặm, nhành kinh-giới, đem nhúng trong huyết của chim kia đã cắt cổ trên nước chảy. 7 Thầy tế-lễ phải rảy huyết bảy lần trên người được sạch phung, và định người là tinh-sạch, rồi thả con chim còn sống ra ngoài đồng. 8 Kẻ được sạch sẽ giặt áo-xống mình, cạo hết lông, tắm trong nước, rồi sẽ được tinh-sạch. Kế đó người được vào trại-quân, nhưng phải ở ngoài trại mình trong bảy ngày.

9 Qua ngày thứ bảy người sẽ cạo hết lông, tóc, râu, và lông mày mình, giặt quần-áo và tắm mình trong nước, thì sẽ được tinh-sạch. 10 Qua ngày thứ tám, người bắt hai chiên con đực không tì-vít chi, một chiên con cái chưa giáp năm, không tì-vít chi, ba phần mười ê-pha bột lọc, chế dầu, làm của-lễ chay, và một lót dầu[1]; 11 thầy tế-lễ làm lễ nên thanh-sạch sẽ đem người đương được sạch và các vật đó đến trước mặt Đức Giê-hô-va tại cửa hội-mạc.


  1. Một đồ lường nhỏ về vật nước: một phần mười hai của đồ lường « hin », hin ước hơn ba litres.
— 129 —