Trang:Ngoc le hon, Ngo Van Trien dich 1930.pdf/102

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
— 100 —

Hiện nay nàng vừa yếu khỏi, nếu ta không chiều ý thì con ma bệnh vô tình kia nó vẫn nằm dình bên cạnh, lọ phải mời mới trở lại đâu! Ta không thể chữa cho nàng khỏi ốm, nhưng sao nỡ làm cho nàng lại ốm! Xem chiều như thế, vậy lúc này đành lẽ phải dùng đến kế hoãn binh. Chàng liền cầm bút viết một bức phúc-thư, đại khái nói: Nghìn dặm mây Tần, lòng về đương nóng. Việc chị tính giùm cho đó, bây giờ chưa thể quyết được ngay. Vậy xin hãy khất chị một tháng để về suy nghĩ. Đợi sang thu khi lại tới trường dạy học, sẽ liệu bề bình-tước giương cung. Việc nên chăng chưa biết thế nào, song cũng không dám cố ý trái lòng bạn nữa. Cuối thư lại đề bốn bài thơ tứ-tuyệt rằng:

I.— Nguyệt-lão khuyên ai học lấy nghề,
      Tơ hồng âu phải khéo vương xe;
      Cheo-leo đường Thục đi không trót,
      Đầu Lũng trông chừng đã sợ ghê.

II.— Lò cừ nung-nấu tỉnh hay mê,
       Hạnh-phúc trăm năm ngán đủ bề;
       Vẫn biết Tân-di hoa phẩm quý,
       Riêng yêu đầm lụy một cành Lê.

III.— Đất rậm trời hoang đã nặng nguyền,
        Kiếp này thôi có nghĩ chi duyên;
        Thử xem con bướm Thanh-lăng nọ,
        Cành khác nào ai thấy đậu truyền!

IV.— Ví chăng duyên ấy chắp cho thành,
        Nguyệt tủi hoa hờn lắm sự-sinh;
        Buồn ngắt đêm qua mưa gió dữ,
        Tìm ai trong mộng suốt năm canh.

Duyên đâu khéo dắt tơ đào, nợ đâu ai đã buộc vào cho ai? Muôn năm đất rộng trời dài, một thiên hận-sử cho đời xem chung. Một bức thư của Lê-nương đưa cho Mộng-Hà lần mới rồi, chính là đã định cái số mệnh một đời của Quân-Thiến. Cô bé thơ ngây, hoa còn phong nhị, chị dâu lúng-túng, tơ khéo xe quàng. Nghiệt oan đã trút vào thân, tránh sao cho khỏi dữ gần