Bước tới nội dung

Trang:Nhung tran do mau hoi nguoi Phap moi sang ta den ngay nay 3.pdf/6

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
38
hanoi nhat-nam thu-quan xuat-ban

Những lúc gió thổi hiu-hiu, cờ Ba-sắc phất-phơ trên cột gạch, hay những khi nhà binh rước hội, tiếng kèn đồng dồn-dập trong cửa thành, qua đường Giẫy-nhãn, lên phố Cửa-bắc, trông cái mảnh thành cao ngứt, nghĩ đến cuộc gió tanh, mưa máu ngày xưa, bạn đọc cuốn chuyện này chắc không thể không nhớ đến ông Hoàng-Diệu!

Hoàng-diệu!

Hai chữ rất quan-hệ trong quốc-sử hồi gần đây, chẳng những người Nam kính-trọng mà người Pháp cũng vẫn kính-trọng.

Núi Tản chưa mòn. Giòng nước Nhị-hà chưa cạn, cái tên Hoàng-diệu chắc còn sống với nòi-giống An-nam.

« Này thành quách, này nước-non, trăm trận phong-trần còn thước đất ».

« Làm nhật-tinh, làm sông-núi, mười năm tâm-sự có ông trời... »

Đó là lời dịch hai câu chữ Hán đề ở cửa miếu Trung-liệt.

Đọc mấy câu đó, ai đã biết làm văn chữ Hán, đều phải nhận rằng nó thật xứng-đáng với chỗ thờ quan Hà-ninh Tổng-đốc họ Hoàng.

Ông là người làng Diễn-phúc tỉnh Quảng-nam, thi đậu Phó-bảng, đầu đời Tự-đức đã làm Tri-phủ Tĩnh-Gia, rồi bị cách chức.

Năm Tự-đức thứ 17, vua Tự-đức vì thấy thế nước hiểm-nghèo, người tài ít-ỏi, mới dụ các quan từ tam, tứ phẩm trở lên, biết ai là kẻ có thể dùng được thì phải cử lên, chờ khi nhà nước dùng đến. Bấy giờ Tuần-phủ Quảng-nam, là Đặng-huy-Trứ mới cử ông này và mấy người nữa. Tờ sớ tâu vua của Đặng-huy-trứ đại-khái