Trang này cần phải được hiệu đính.
— 4 —
- Ăn trái nhớ kẻ trổng cây
Không qnên ơn. - Ăn trộm quen tay, ngủ ngày quen mắt.
Tập nghề nào quen nghề ấy. - Ăn trước trả sau.
Có ăn có chịu ; sự thế thiếu trước thiếu sau. - Ăn xôi chùa ngọng miệng.
Xôi chùa là của tấn cúng, hễ ăn của người ta rồi, muốn nói theo người ta, thì sợ bỏ lẽ phải ; muốn nói theo lẽ phải, thì sợ bỏ người ta, hoá ra u ơ nói không thông, ấy là tuyệt nhơn khẩu. - Ăn xưa chừa nay.
Ai nấy có một thuở. - Ăn vỏ dưa, thấy vỏ dừa mà sợ.
Mắc một việc, sợ lây tới việc khác, hay là tầng thấy việc đời mà ngán. - Ao cá lửa thành.
Một nghĩa với câu lửa muôn xe, nước một gáo, cũng có nghĩa là lửa cháy lây. - Ao gấm mặc đêm.
Nghĩa là chẳng thấy hiển vinh ; kẻ làm quan về lành gọi là vinh qui. - Áo mặc sao qua khỏi đầu.
Con cái đâu dám cải ý cha mẹ. - Ao vắn, giũ chẳng nên dài.
Nghĩa là phải an một bề.
B
- Bạ ăn bạ nói.
Bạ ăn, gặp đâu ăn đó ; bạ nói, đụng đâu nói đó, nghĩa là ăn nói không có phép. - Ba bảy hai mươi mốt.
Ăn nói không chắc chắn, nói hai đều như một. - Ba chìm ba nổi.
Nghĩa là thì vận tráo chác, ghe phen chìm nổi ; có tiếng nói phù trầm, hay là chìm nổi không mà thôi thì có nghĩa là bưa bưa không ra đen đỏ. - Ba chớp ba sáng.
Nghĩa là trông thấy không tỏ rõ. - Bà con xa, chẳng bằng xóm diềng gần.
Gần thì tiện bề tới lui giúp đỡ, chẳng khá phụ kẻ gần.