Trang:Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn.djvu/71

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Trang này cần phải được hiệu đính.
— 69 —
  1. Tác xá đáo bàn.
    Nghĩa là làm nhà bên đàng. Kẻ qua lại chê khen, nghị luận nhiều thế mà không rồi.
  2. Tài gia là cha ăn cướp.
    Tài gia hay khai gian, mất ít xít ra cho nhiều, hay là khai phòng hao, dầu quan có dạy bồi không đủ thì cũng được phần nhiều.
  3. Tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu.
    Ở tại nhà tùng cha, gả ra thì tùng chồng. Ấy là đạo tam tùng, phận gái phải giữ.
  4. Tái ông thất mã, nan tri họa phước.
    Ông Tái mất ngựa khó biết họa phước. Nghĩa là không biết đâu là họa phước. Tích rằng : ông Tái mất ngựa, người ta tới thăm, ông ấy rằng : đâu biết là không phải họa. Cách ít bữa con ông ấy cỡi con ngựa Phiên mà đi chơi, rủi té xuống gãy tay, người ta cũng đi thăm, ông ấy rằng : đâu biết là không phải phước. Chẳng khỏi bao lâu có việc binh, lệnh truyền phải bắt lính úp bộ, con ông ấy nhờ gãy tay mà khỏi điền lính.
  5. Tài tán tắc dân tụ, tài tụ tắc dân tán.
    Của tán ra thì dân nhóm, của nhóm thì dân phải tan. Quan có nhơn, tỉnh hình bạc liểm thì dân sung, quan khắc bạc chinh thâu thái quá thì dân nát.
  6. Tâm bất tại.
    Xao lảng không chủ tâm.
  7. Tam đa, ngũ phước.
    Đa tử đa phú đa quí, nghĩa là nhiều con, nhiều của, nhiều sang là tam đa; Thọ, phú, khương ninh, du háo đức, khảo thọ mạng là ngũ phước. Du hào đức, nghĩa là nên bề đức hạnh ; khảo thọ mạng, nghĩa là nên mạng sống lâu, chết phi mạng hay chết tức thì không thành thọ mạng.
  8. Tắm khi nào vuốt mặt khi ấy.
    Không nghĩ phải chăng, cũng là phủi ơn.
  9. Tam ngu thành hiền.
    Ba người dại cũng làm đặng một người khôn ; trí nhiều người hiệp lại cũng nghĩ đặng điều phải.
  10. Tam nhơn đồng hành tất hữu ngã sư diên.
    Ba người đồng đi, ắt có kẻ làm thầy ta vậy. Trong ba người phải có người biết đều làm thầy cho ta đặng. Kể mình nữa là ba.
  11. Tam sao thất bổn.
    Sao chép nhiều lần, không khỏi sai trong bổn chánh.